Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội tại khu vực phía Nam
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Tin hoạt động

Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội tại khu vực phía Nam

Thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động trong công tác thi hành án dân sự (THADS) theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, năm 2009, TP. Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên trong cả nước được chọn để triển khai thí điểm chế định Thừa phát lại. Tiếp đó, thực hiện Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 của Quốc hội về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, trong khu vực phía Nam (Khu vực) có thêm 05 địa phương gồm: Đồng Nai, Bình Dương, Tiền Giang, An Giang và Vĩnh Long vào cuộc.
Xác định đây là chủ trương lớn, quan trọng của Đảng và Nhà nước, ngay sau khi được chọn, Tỉnh ủy, Thành ủy và UBND các tỉnh, thành phố đều khẩn trương triển khai thực hiện, xây dựng Đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại” phù hợp với địa phương mình; thành lập và xây dựng Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo; gấp rút đào tạo nhân lực, chuẩn bị các điều kiện để thành lập các Văn phòng Thừa phát lại theo đúng tiến độ và số lượng của Đề án đã được phê duyệt .
Về tổ chức, nhân sự: Đến nay trong Khu vực đã có 29 văn phòng Thừa phát lại và 76 Thừa phát lại đang hành nghề tại các Văn phòng. Trong đó, có 12 Văn phòng hoạt động theo loại hình công ty hợp danh và 17 Văn phòng hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Đặc biệt, tại một số địa phương, được sự quan tâm chỉ đạo của Cấp ủy, trong Khu vực đã có 06 Văn phòng Thừa phát lại đã thành lập được Chi bộ Đảng .
Về hoạt động nghiệp vụ: Đến thời điểm hiện tại, các Văn phòng Thừa phát lại trong Khu vực đã thực hiện tống đạt 659.753 văn bản, thu 45.758.444.000 đồng; lập 34.813 vi bằng, thu 44.969.389.000 đồng; xác minh thi hành án 614 việc, thu 2.152.147.000 đồng và tổ chức thi hành án 245 vụ, thu 2.803.611.000 đồng. Tuy nhiên, các hoạt động này chủ yếu vẫn tập trung ở TP. Hồ Chí Minh .
Từ những kết quả ban đầu của việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội, có thể rút ra một số nhận xét như sau:
1. Những kết quả đạt được
Một là, chủ trương thí điểm chế định Thừa phát lại tại 06 địa phương trong Khu vực đạt được sự đồng thuận và nhất trí cao của cấp ủy, chính quyền và các ngành, các cấp có liên quan, việc triển khai thực hiện tại các địa phương này luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt của Cấp ủy và chính quyền.
Hai là, công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến về chủ trương của Đảng và Nhà nước về triển khai thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và các văn bản quy phạm pháp luật về Thừa phát lại được các ngành, các cấp chú trọng thực hiện, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và nhân dân, tạo được sự thống nhất trong nhận thức và phối hợp của các ngành, các cấp.
Ba là, mặc dù, chế định Thừa phát lại trong giai đoạn thí điểm còn gặp nhiều khó khăn nhưng đến nay cũng đã đạt được kết quả khá tốt, trong đó có hoạt động tống đạt văn bản cho Tòa án và cơ quan THADS và lập vi bằng có kết quả rất tốt.
Bốn là, xét về khía cạnh hiệu quả trong khâu tổ chức thi hành án của các Văn phòng Thừa phát lại cho thấy, trong các vụ việc tổ chức thi hành án xong, Thừa phát lại đã thực hiện tốt việc giải thích, thuyết phục để người phải thi hành án tự nguyện thi hành. Đến nay, Thừa phát lại chưa phải áp biện pháp cưỡng chế cần đến việc huy động lực lượng.
Các Văn phòng Thừa phát lại căn bản đã ổn định về tổ chức và hoạt động khá tốt , tạo ra những hiệu ứng tích cực trong xã hội, từng bước khẳng định vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội và trong hoạt động bổ trợ tư pháp. Sự tham gia của chế định Thừa phát lại chẳng những không làm cho hoạt động tư pháp bị xáo trộn mà còn góp phần bổ khuyết cho những hạn chế tự thân của hoạt động tư pháp, làm cho hoạt động tư pháp được hiệu quả hơn, chặt chẽ hơn và đúng vai trò hơn, đáp ứng nhu cầu của người dân về một loại hình dịch vụ pháp lý mới, tạo thêm một công cụ pháp lý để người dân tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong việc thực hiện các giao dịch dân sự và trong các quá trình tố tụng Tư pháp. Các địa phương được chọn thí điểm đều mong muốn đưa chế định Thừa phát lại vào hoạt động chính thức để giảm tải công việc cho các cơ quan Tòa án, THADS và mang lại lợi ích cho người dân.
2. Một số hạn chế, bất cập
Thừa phát lại là lĩnh vực mới, trong giai đoạn đầu của việc thí điểm vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Bên cạnh những kết quả đạt được, thực hiện thí điểm đã bộc lộ một số hạn chế:
Một là, mặc dù các cơ quan có liên quan đã có các biện pháp hỗ trợ, tạo điều kiện cho Thừa phát lại thực hiện thi hành án , nhưng số lượng án thi hành chưa nhiều, chưa đáp ứng đúng yêu cầu, kỳ vọng đặt ra, chưa khai thác hết tiềm năng của chế định này. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực THADS, hàng năm, các cơ quan THADS tại 06 địa phương trong Khu vực phải thụ lý, giải quyết hơn 140.000 vụ việc có điều kiện thi hành và có xu hướng tăng theo từng năm . Tuy nhiên, trong thời gian thực hiện thí điểm, các Văn phòng Thừa phát lại chỉ mới thực hiện được 245 việc tổ chức thi hành án và tại TP. Hồ Chí Minh vào những năm cuối của “thí điểm”, số lượng vụ việc yêu cầu lại có sự giảm sút .
Hai là, sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan có liên quan đối với việc tổ chức thi hành án do Thừa phát lại thực hiện còn dè dặt, hỗ trợ phối hợp chưa tốt; người được thi hành án chưa tin tưởng nên kết quả tổ chức thi hành án chưa cao.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nêu trên. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ yếu vẫn do đây là chế định mới, thời gian đi vào thực tiễn còn quá ít . Ngoài ra, do đang trong giai đoạn thí điểm nên các văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh về tổ chức và hoạt động nghiệp vụ của Thừa phát lại chưa đầy đủ và hoàn thiện, có nhiều quy định liên quan đến hoạt động tống đạt văn bản, giấy tờ, lập vi bằng, xác minh thi hành án và tổ chức thi hành án còn thiếu hoặc chưa phù hợp với các quy định có liên quan. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp gây khó khăn trong công tác này, dẫn đến kết quả chưa đạt yêu cầu. Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, nguồn nhân lực cũng là một trong những yếu tố làm cho việc triển khai chế định Thừa phát lại còn một số hạn chế. Đội ngũ Thừa phát lại còn ít so với nhu cầu công việc ngày càng tăng; trình độ nghiệp vụ không đồng đều, nhiều người chưa có thực tiễn trong việc tổ chức thi hành án vì chủ yếu được bổ nhiệm từ nguồn luật sư, người công tác trong các lĩnh vực pháp luật khác hoặc các Cử nhân Luật mới ra trường chứ không có xuất phát điểm từ Chấp hành viên. Do đó, hiệu quả hoạt động Thừa phát lại (nói chung) và công tác tổ chức THADS của Thừa phát lại (nói riêng) chưa cao, còn nhiều sai sót vi phạm về thủ tục thi hành án. Đội ngũ Thư ký nghiệp vụ, còn thiếu kinh nghiệm về nghiệp vụ, kỹ năng thực hiện các mảng công việc của Thừa phát lại, thường xuyên thay đổi và có sự biến động. Bất cập này dẫn đến một số sai sót về trình tự, thủ tục thực hiện các công việc Thừa phát lại.
3. Đề xuất, kiến nghị
Để khắc phục những hạn chế, bất cập về hoạt động của Thừa phát lại trong thời gian qua, tác giả xin đưa ra một số đề xuất sau:
Thứ nhất, đối với các cơ quan Trung ương:
Trước hết, nhanh chóng hoàn thiện thể chế. Theo đó, Ban Chỉ đạo thực hiện thí điểm định Thừa phát lại Trung ương báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét cho phép chế định Thừa phát lại chính thức được triển khai thực hiện. Đồng thời, Bộ Tư pháp chủ trì tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội ban hành văn bản pháp lý có giá trị pháp lý tương xứng như Luật Thừa phát lại và nghiên cứu chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng theo hướng xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng chức danh Thừa phát lại và Thư ký nghiệp vụ Thừa phát lại. Ngoài ra, bổ sung vào chương trình đào tạo các chức danh tư pháp (thẩm phán, kiểm sát viên, chấp hành viên, công chứng viên, đấu giá viên, luật sư…) học phần có nội dung về chế định Thừa phát lại với số tín chỉ thích hợp nhằm giúp cho các chức danh này nắm bắt được những vấn đề cơ bản của hoạt động Thừa phát lại để cùng làm tốt công tác phối hợp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Các cơ quan Trung ương (Bộ Tư pháp với Tòa án nhân dân tối cao....) sớm ban hành các văn bản hướng dẫn mang tính thống nhất, tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động của chế định này phát triển trong thời gian tới. Cụ thể:
- Tòa án nhân dân tối cao có văn bản chỉ đạo cho Tòa án cấp dưới (trước mắt là TP. Hồ Chí Minh và các địa phương thực hiện thí điểm) bổ sung vào bản án, quyết định về phần dân sự với nội dung “Sau khi bản án, quyết định này có hiệu lực thi hành, các đương sự có quyền yêu cầu cơ quan THADS hoặc Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thực hiện”. Đây là việc làm cần thiết và phù hợp với quy định pháp luật, chủ trương của Đảng trong thời gian thí điểm chế định này.
- Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao phối hợp chỉ đạo các Cơ quan THADS và Tòa án cấp dưới tiếp tục chuyển giao các văn bản cần tống đạt cho Thừa phát lại thực hiện một cách linh hoạt, hợp lý. Đồng thời, hướng dẫn rõ quy trình và thủ tục trong việc giao nhận văn bản cũng như trong việc thanh quyết toán chi phí tống đạt; các Bộ, ngành có liên quan cần sớm xem xét điều chỉnh chi phí tống đạt theo hướng nâng mức phí tống đạt cho phù hợp thực tế.
Có cơ chế khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho những người đang được bổ nhiệm các chức danh tư pháp (Chấp hành viên, Điều tra viên, Thẩm phán, Kiểm sát viên,…) nếu có nguyện vọng thì được chuyển sang hành nghề Thừa phát lại.
Thứ hai, đối với các Sở Tư pháp: Do Thừa phát lại là chế định mới nên các Sở Tư pháp tham mưu UBND cần tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về Thừa phát lại tại địa phương. Các Văn phòng Thừa phát lại cần tập trung quảng bá hình ảnh Thừa phát lại thông qua các vụ việc cụ thể mà mình đã thực hiện hiệu quả trong thực tế thời gian qua. Ngoài ra, từng Thừa phát lại, Thư ký Thừa phát lại phải không ngừng học tập, bồi dưỡng, tham gia tích cực các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao hơn nữa kỹ năng, nghiệp vụ liên quan đến Thừa phát lại trong đó có lĩnh vực THADS.
Mai Thị Thùy Dung – Nguồn Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số 11 -2015