Phân tích về cơ chế bảo vệ cổ đông trong công ty cổ phần chủ yếu được tập trung vào 02 nhóm: Các quy định về quyền của cổ đông và các quy định về quản trị nội bộ công ty. Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết, tác giả đề cập đến các hạn chế còn tồn tại trong nhóm các vấn đề bảo vệ cổ đông thông qua các quy định về quản trị nội bộ tại công ty. Trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm định hướng hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới.
Điểm a, b khoản 3 Điều 114 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định:
“3. Cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều này có quyền yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp sau đây:
a) Hội đồng quản trị vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông, nghĩa vụ của người quản lý hoặc ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao;
b) Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị đã vượt quá 06 tháng mà Hội đồng quản trị mới chưa được bầu thay thế;”
Trong thực tiễn hiện nay, quy định trên đã gây ra không ít những khó khăn trong việc áp dụng. Cụ thể:
Thứ nhất, căn cứ Hội đồng quản trị “vi phạm nghiêm trọng” quyền của cổ đông, nghĩa vụ của người quản lý còn quy định chung chung, việc xác định như thế nào là “vi phạm nghiêm trọng” vẫn chưa có được sự thống nhất trong quan điểm. Thiết nghĩ, với tư cách là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông thì các vi phạm của Hội đồng quản trị nên được quy định theo hướng đều làm phát sinh quyền yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông của các cổ đông/nhóm cổ đông.
Thứ hai, việc quy định chỉ khi nhiệm kỳ Hội đồng quản trị đã vượt quá 06 tháng mà Hội đồng quản trị mới chưa được bầu thay thế thì mới phát sinh quyền yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông của các cổ đông/nhóm cổ đông là quy định đã tạo nên một “khoảng trống quyền lực” quá lâu. Giải thích cho việc quy định khoảng thời gian là 06 tháng như trên cho đến hiện nay vẫn còn là một dấu chấm hỏi. Thiết nghĩ khi nhiệm kỳ Hội đồng quản trị đã vượt quá 01 tháng mà Hội đồng quản trị mới chưa được bầu thay thế thì các cổ đông/nhóm cổ đông sẽ có quyền yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông để bầu ra Hội đồng quản trị mới thay thế, từ đó, sẽ đảm bảo được tính hiệu quả hơn trong công tác quản trị tại công ty.
Về yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, theo quy định các cổ đông có thời hạn 90 ngày để thực hiện yêu cầu hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông áp dụng đối với cả trường hợp nội dung nghị quyết vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty
[1]. Quy định này là không hợp lý vì không thể dùng một thời hạn mà quá thời hạn đó cổ đông không yêu cầu hủy bỏ để “hợp thức hóa” một nghị quyết có nội dung vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty. Theo cách quy định của pháp luật hiện nay, nếu quá thời hạn 90 ngày nêu trên mà các cổ đông không có yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết thì sẽ mất quyền yêu cầu và khi đó nghị quyết sẽ không thể bị hủy bỏ về sau. Thiết nghĩ, thời hạn 90 ngày nêu trên chỉ nên được áp dụng với các vi phạm về hình thức khi trình tự và thủ tục triệu tập họp và ra quyết định của Đại hội đồng cổ đông không thực hiện đúng theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty
[2]. Đối với trường hợp nội dung nghị quyết vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty sẽ hợp lý hơn nếu quy định không hạn chế thời hạn để cổ đông yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ đối với các nghị quyết này.
Liên quan đến nghị quyết của Hội đồng quản trị, khoản 4 Điều 149 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định:
“Khi thực hiện chức năng, quyền và nghĩa vụ của mình, Hội đồng quản trị tuân thủ đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông. Trong trường hợp nghị quyết do Hội đồng quản trị thông qua trái với quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty gây thiệt hại cho công ty thì các thành viên tán thành thông qua nghị quyết đó phải cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân về nghị quyết đó và phải đền bù thiệt hại cho công ty; thành viên phản đối thông qua nghị quyết nói trên được miễn trừ trách nhiệm. Trường hợp này, cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất 01 năm có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị đình chỉ thực hiện nghị quyết nói trên”. Quy định này làm phát sinh các vấn đề pháp lý như sau:
Thứ nhất, quy định về điều kiện để cổ đông có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị đình chỉ thực hiện nghị quyết phải sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất 01 năm là không hợp lý, việc quy định thời hạn sở hữu cổ phần như vậy là quá dài, trong khi các quy định khác chỉ yêu cầu thời hạn sở hữu cổ phần chỉ là liên tục ít nhất 06 tháng có thể kể đến như quy định tại khoản 2 Điều 114 và khoản 1 Điều 161 Luật Doanh nghiệp 2014.
Thứ hai, sau khi cổ đông yêu cầu Hội đồng quản trị đình chỉ thực hiện nghị quyết nói trên câu hỏi được đặt ra nếu Hội đồng quản trị không đình chỉ thi hành thì lúc này sẽ giải quyết như thế nào? Khi đó đã phát sinh tranh chấp thuộc nhóm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 4 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 hay chưa? Khi mà những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 31 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 chỉ là yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, nghị quyết của Hội đồng thành viên theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và các yêu cầu khác ngoài những yêu cầu phát sinh theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, mà yêu cầu đình chỉ thi hành nghị quyết của Hội đồng quản trị lại là một trong những yêu cầu phát sinh theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp thì khi đó cổ đông có quyền đến Tòa án để yêu cầu đình chỉ thi hành nghị quyết đó của Hội đồng quản trị hay không? Một trường hợp có thể dẫn chứng, vừa qua, tại Công ty Cổ phần Vận chuyển Sài Gòn Tourist (STT) một cổ đông của công ty đã đề nghị Tòa án đình chỉ nghị quyết của Hội đồng quản trị. Bản án sơ thẩm ngày 20/01/2016 đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên đình chỉ việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng quản trị
[3]. Thiết nghĩ, sẽ là cần thiết khi cụ thể hóa quy định quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết của Hội đồng quản trị trong Dự thảo Luật Doanh nghiêp sửa đổi.
Sau cùng, một vấn đề luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của cổ đông nhất là trong bối cảnh hiện nay đó là quyền về kiểm soát các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi. Theo quy định tại Điều 162 Luật Doanh nghiệp 2014, việc phân định thẩm quyền giữa Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị thuần túy chỉ dựa vào giá trị của giao dịch. Hội đồng quản trị chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 35% tổng giá trị tài sản công ty ghi trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, còn Đại hội đồng cổ đông chấp thuận các hợp đồng và giao dịch khác. Khi quy định Hội đồng quản trị chấp thuận các hợp đồng có giá trị lớn như hiện nay nếu Hội đồng quản trị làm việc không trung thực, không cẩn trọng, có dấu hiệu lợi ích nhóm sẽ dẫn đến nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng cho công ty. Sẽ là hợp lý hơn khi tỷ lệ này nên giảm xuống khoảng 10% hoặc thấp hơn và đây là tỷ lệ cứng thay vì quy định nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ hoặc một giá trị khác. Điều này cũng là phù hợp với tiêu chuẩn do World Bank khuyến cáo tỷ lệ này chỉ là 10%, theo đó Hội đồng quản trị chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 10% tổng giá trị tài sản công ty ghi trong báo cáo tài chính.
Bên cạnh đó, theo khoản 4 Điều 162 Luật Doanh nghiệp 2014
“Hợp đồng, giao dịch bị vô hiệu và xử lý theo quy định của pháp luật khi được ký kết hoặc thực hiện mà chưa được chấp thuận theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, gây thiệt hại cho công ty; người ký kết hợp đồng, cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có liên quan phải liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh, hoàn trả cho công ty các khoản lợi thu được từ việc thực hiện hợp đồng, giao dịch đó”. Với quy định này, một câu hỏi được đặt ra vậy khi hợp đồng, giao dịch được ký kết hoặc thực hiện mà đã được Hội đồng quản trị chấp thuận nhưng gây ra thiệt hại cho công ty thì lúc này trách nhiệm bồi thường sẽ được giải quyết như thế nào? Theo khuyến cáo về quản trị công ty của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Co-operation and Development, viết tắt: OECD) và các thiết chế quốc tế khác thì những người quản lý, điều hành công ty phải luôn đặt lợi ích của công ty và cổ đông lên trên và một khi hành động của họ gây thiệt hại cho công ty hay cổ đông thì phải chịu trách nhiệm bồi thường, đây là điều hoàn toàn phù hợp và việc thể hiện, bổ sung quy định này tại Điều 162 Luật Doanh nghiệp 2014 trong thời gian tới thiết nghĩ là việc cần được xem xét cũng như nhận được sự quan tâm nhiều hơn.
So với những quy định trước đây, Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những cải cách mạnh mẽ trong các quy định về cơ chế bảo vệ cổ đông. Tuy nhiên, trong nền kinh tế đang phát triển nhanh và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay dẫn đến các yêu cầu phát sinh của thực tiễn quản trị công ty, các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 đã dần bộ lộ nhiều hạn chế. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về bảo vệ cổ đông trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tham khảo các thông lệ quản trị công ty tốt của quốc tế là đòi hỏi cấp thiết nhằm đảm bảo được tính “đời sống” trong pháp luật./.
Duy Tồn
[1] Điều 147 Luật Doanh nghiệp 2014.
[2] Trừ trường hợp các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông được thông qua bằng 100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là hợp pháp và có hiệu lực ngay cả khi trình tự và thủ tục thông qua nghị quyết đó không được thực hiện đúng như quy định (khoản 2 Điều 148 của Luật Doanh nghiệp 2014).