Nghị định có nhiều thay đổi, bổ sung so với các văn bản trước đây, đặc biệt là những quy định về các công việc của Thừa phát lại (TPL), trong đó có một số điểm đáng chú ý:
1. Công việc tống đạt
Về cơ bản, những vấn đề về thủ tục và phạm vi tống đạt của TPL tại Nghị định 08/2020/NĐ-CP không có sự thay đổi lớn, nhưng đã mở rộng thẩm quyền tống đạt của TPL. Bên cạnh việc tiếp tục tống đạt các giấy tờ, hồ sơ, tài liệu trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, vụ việc hành chính, việc dân sự trong vụ án hình sự và khiếu nại, tố cáo cho Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự (THADS), TPL còn được thực hiện tống đạt cho Viện kiểm sát nhân dân và những giấy tờ có liên quan đến tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Ngoài ra, Nghị định 08/2020/NĐ-CP cũng mở rộng quyền lựa chọn Văn phòng TPL khi quy định mỗi Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan THADS có thể ký hợp đồng dịch vụ tống đạt với một hoặc nhiều Văn phòng TPL.
2. Công việc lập vi bằng
Thời gian qua, tại một số địa phương, lập vi bằng đã trở thành hoạt động chính của TPL, nhưng quá trình thực hiện các văn bản hướng dẫn gặp nhiều vướng mắc. Vì vậy, Nghị định 08/2020/NĐ-CP đã có nhiều sửa đổi quan trọng:
(i) Phạm vi lập vi bằng của TPL đã được mở rộng ra “phạm vi toàn quốc”;
(ii) Về giá trị pháp lý: Để hạn chế việc người dân bị nhầm lẫn, Nghị định 08/2020/NĐ-CP đã quy định rõ ràng, cụ thể tại khoản 2, khoản 3 Điều 36:
“2. Vi bằng không thay thế văn bản công chứng, văn bản chứng thực, văn bản hành chính khác.
3. Vi bằng là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ việc dân sự và hành chính theo quy định của pháp luật; là căn cứ để thực hiện giao dịch giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật”.
(iii) Về thẩm quyền lập vi bằng: Nghị định mới đã quy định 09 trường hợp không được lập vi bằng tại Điều 37. Về bản chất, đây là sự tổng hợp các quy định và hướng dẫn trước đây, nhưng rõ ràng hơn. Nổi bật, Nghị định đã quy định rõ hơn những trường hợp thuộc phạm vi công chứng, chứng thực; những hành vi để chuyển quyền sử dụng, quyền sở hữu đất đai, tài sản hoặc thực hiện các giao dịch không đúng quy định của pháp luật mà TPL không được lập vi bằng tại khoản 4, 5, 6 Điều 37:
“4. Xác nhận nội dung, việc ký tên trong hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định thuộc phạm vi hoạt động công chứng, chứng thực; xác nhận tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt; xác nhận chữ ký, bản sao đúng với bản chính.
5. Ghi nhận sự kiện, hành vi để chuyển quyền sử dụng, quyền sở hữu đất đai, tài sản mà không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng, quyền sở hữu theo quy định của pháp luật.
6. Ghi nhận sự kiện, hành vi để thực hiện các giao dịch trái pháp luật của người yêu cầu lập vi bằng”.
Ngoài ra, khoản 8 Điều này quy định TPL không được lập vi bằng để “Ghi nhận sự kiện, hành vi không do Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến”. Do đó, TPL không được lập vi bằng ghi nhận lại lời kể vì đây là “nghe lại” sự việc chứ không phải “trực tiếp chứng kiến”;
(iv) Về đăng ký vi bằng: Theo quy định của Nghị định 08/2020/NĐ-CP, việc đăng ký vi bằng chỉ là sự đăng ký hình thức, giúp giảm tải áp lực cho các Sở Tư pháp trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của TPL. Theo đó, Nghị định không còn quy định thẩm quyền, trách nhiệm kiểm tra và từ chối đăng ký vi bằng của Sở Tư pháp. Sau khi lập vi bằng, TPL phải gửi đến Sở Tư pháp để đăng ký và trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày nhận được vi bằng, Sở phải vào sổ đăng ký; TPL phải tự chịu trách nhiệm trước người yêu cầu, trước pháp luật về vi bằng do mình lập.
3. Công việc xác minh điều kiện thi hành án
Bản chất nội dung xác minh điều kiện thi hành án của Nghị định 08/2020/NĐ-CP là sự kế thừa các quy định trước đây, nhưng có sự cụ thể hóa và được kết cấu lại rõ ràng hơn. Bên cạnh đó, Nghị định đã quy định thêm một số tài liệu kèm theo khi TPL thực hiện xác minh như: bản án/quyết định có hiệu lực pháp luật; quyết định xác minh điều kiện thi hành án; bản sao văn bản thỏa thuận xác minh điều kiện thi hành án; quyết định thi hành án nếu Văn phòng TPL tổ chức thi hành án.
Để tạo thuận lợi và nâng cao hiệu quả hoạt động xác minh điều kiện thi hành án của TPL, Nghị định quy định rõ trách nhiệm phối hợp, quyền từ chối cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan. Đồng thời, quy định bổ sung trách nhiệm thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân, cụ thể: TPL có trách nhiệm thông báo đến Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện tại nơi Văn phòng TPL có trụ sở (khi ra quyết định xác minh điều kiện thi hành án; ban hành văn bản đề nghị cung cấp thông tin; ủy quyền xác minh); tại nơi thực hiện xác minh (khi xác minh ngoài địa bàn cấp tỉnh nơi Văn phòng TPL có trụ sở); tại nơi Văn phòng TPL nhận ủy quyền đặt trụ sở (trong trường hợp ủy quyền xác minh).
4. Công việc thi hành bản án, quyết định theo yêu cầu của đương sự
Nghị định số 08/2020/NĐ-CP đã sửa đổi mạnh mẽ theo hướng thu hẹp đáng kể quyền hạn tổ chức thi hành án của TPL. Theo đó, Trưởng Văn phòng TPL không được ra quyết định thi hành án như trước đây mà phải có văn bản đề nghị Chi cục trưởng Chi cục THADS hoặc Cục trưởng Cục THADS ra quyết định thi hành án theo thẩm quyền, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ký hợp đồng dịch vụ thỏa thuận thi hành án. Khi tổ chức thi hành án, TPL không còn quyền hạn áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án, sử dụng các công cụ hỗ trợ, xử phạt vi phạm hành chính, các quyền yêu cầu Tòa án theo khoản 4 Điều 68, khoản 3 Điều 69, Điều 74, khoản 2 Điều 75, khoản 2 Điều 102 Luật THADS. Nếu trong quá trình thi hành án, phát sinh các trường hợp phải áp dụng các hoạt động trên thì TPL buộc phải chấm dứt việc thi hành án và chuyển hồ sơ sang cơ quan THADS, cơ quan THADS có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ, đơn yêu cầu thi hành án của đương sự và tổ chức thi hành án. Những trình tự, thủ tục, kết quả thi hành án trước đó nếu được thực hiện đúng quy định của pháp luật sẽ vẫn có giá trị pháp lý và được công nhận.
Tuy nhiên cần lưu ý, không phải mọi trường hợp TPL chấm dứt việc thi hành án và chuyển hồ sơ thì cơ quan THADS đều phải tiếp tục tổ chức thi hành. Bởi lẽ, khoản 2 Điều 56, điểm b khoản 4 Điều 58 Nghị định 08/2020/NĐ-CP có quy định: trong trường hợp vụ việc đang do cơ quan THADS tổ chức thi hành, nhưng sau đó đương sự có văn bản đề nghị đình chỉ để văn phòng TPL tổ chức thi hành thì đương sự không có quyền yêu cầu cơ quan THADS tiếp tục thi hành đối với những khoản đã được đình chỉ thi hành án (trừ trường hợp cơ quan THADS đã ra quyết định đình chỉ thi hành án để Văn phòng TPL tổ chức thi hành trước ngày 24/02/2020 mà sau đó phải áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật THADS).
Trường hợp có khiếu nại về hành vi của Trưởng Văn phòng TPL hoặc TPL trong quá trình thi hành án, thẩm quyền giải quyết khiếu nại không được giao cho Trưởng Văn phòng TPL như trước đây mà phải căn cứ vào chủ thể ra quyết định thi hành án để xác định thẩm quyền giải quyết. Theo đó, chủ thể đã ra quyết định thi hành án thực hiện giải quyết khiếu nại lần đầu. Nếu người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khiếu nại đến cấp trên trực tiếp để giải quyết khiếu nại lần hai, đây là quyết định có hiệu lực thi hành.
Bên cạnh các quy định về công việc của TPL, Nghị định còn sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về tổ chức, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến TPL. Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2020/NĐ-CP đã đánh dấu bước phát triển trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 của Quốc hội, là cơ sở xây dựng môi trường pháp lý minh bạch, rõ ràng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của TPL./.
Thanh Lam