Phân tích về cơ chế bảo vệ cổ đông trong công ty cổ phần chủ yếu được tập trung vào 02 nhóm: Các quy định về quyền của cổ đông và các quy định về quản trị nội bộ công ty. Trong bài viết trước
[1], tác giả đã tập trung làm rõ một số hạn chế trong quy định về quản trị nội bộ. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay các quy định về quyền của cổ đông cũng chưa thật sự đảm bảo được tính hiệu quả, có thể kể đến như:
1.
Quyền về thông tin, kiểm soát
Pháp luật đã quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của công ty đối với cổ đông. Tuy nhiên, ngoài công ty niêm yết, các công ty cổ phần thông thường hầu như không chịu bất kỳ sự kiểm soát nào về công bố thông tin cho cổ đông. Chế độ lưu trữ hồ sơ, tài liệu quản trị của công ty cũng không buộc phải tuân theo sự kiểm soát nào. Điều này gây khó khăn cho cổ đông của công ty trong việc theo dõi, giám sát hoạt động của người quản lý. Khoản 1, 2 Điều 114 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định cho các cổ đông phổ thông có quyền xem xét, tra cứu và trích lục các thông tin trong danh sách cổ đông có quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác; xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, biên bản họp và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, còn các cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty mới có quyền xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát.
Để minh bạch hóa hoạt động của công ty và bảo vệ quyền của cổ đông nhỏ, theo đó tất cả cổ đông đều có các quyền về thông tin như trên, không nhất thiết phải là cổ đông hoặc nhóm cổ đông lớn mới có các quyền này. Mặt khác, khoản 1, 2 Điều 114 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định cho các cổ đông có quyền xem xét, tra cứu, trích lục, sao chụp các giấy tờ, văn bản quan trọng trong công ty nhưng lại không quy định về cơ chế đảm bảo thực thi các quyền này, do vậy nếu công ty từ chối cung cấp giấy tờ, văn bản để các cổ đông xem xét, tra cứu, trích lục, sao chụp thì khi đó các cổ đông phải thực hiện quyền này như thế nào? Đây là vấn đề chưa được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014.
Thứ kế, Ban kiểm soát là một bộ phận quan trọng trong bộ máy quản trị doanh nghiệp, phụ trách kiểm soát nội bộ nhằm đảm bảo việc tuân thủ pháp luật, Điều lệ công ty và bảo đảm quyền của các cổ đông. Tuy nhiên, trên thực tế vai trò của Ban kiểm soát chưa được chú trọng đúng mức. Trong công ty cổ phần, tồn tại không ít những trường hợp vai trò của Ban kiểm soát hiện nay chỉ mang tính hình thức, với thành phần là nhân viên cấp dưới trực tiếp của các chức danh lãnh đạo doanh nghiệp. Cấu trúc này làm phá vỡ tính độc lập, khách quan của Ban kiểm soát trước người quản lý công ty
2.
Quyền về quản trị công ty
Nếu Điều lệ công ty không quy định khác, việc biểu quyết bầu thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu
[2]. So với Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014 đã bãi bỏ việc bắt buộc phải áp dụng phương thức bầu dồn phiếu khi bầu thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Do đó, Điều lệ công ty có thể không quy định về phương thức bầu dồn phiếu mà quy định áp dụng phương thức bầu cử trực tiếp thông thường, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền của các nhóm cổ đông nhỏ trong việc bầu các ứng viên của mình vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Lợi ích của phương thức dồn phiếu bầu trong việc bảo vệ quyền của các nhóm cổ đông nhỏ là điều rất rõ ràng và theo thông lệ quốc tế, luật công ty của nhiều nước phát triển, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, đã từ lâu quy định áp dụng phương thức này để bảo vệ cổ đông nhỏ.
3. Quyền về tài sản – tài chính
Quyền được chia lợi nhuận
Một trong số những quy định mang tính nguyên tắc về vấn đề chia lợi nhuận trong công ty cổ phần là cổ đông được nhận cổ tức với mức theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông
[3]. Từ quy định này, câu hỏi được đặt ra nếu Đại hội đồng cổ đông quyết định không chia cổ tức mặc dù công ty đáp ứng đầy đủ điều kiện để chia trong năm tài chính đó, liệu rằng vấn đề này có hợp lý và đúng luật hay không? Quyền được chia cổ tức nên được xem là quyền đương nhiên được hưởng của cổ đông công ty sau một năm tài chính khi công ty đã hoàn thành các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật, còn việc không chia cổ tức chỉ nên áp dụng khi chính các cổ đông từ chối hưởng dụng quyền này.
Quyền được chia giá trị tài sản còn lại của công ty khi công ty giải thể hoặc phá sản
Điểm b khoản 2 Điều 117 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định
“2. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức có các quyền sau đây: b) Nhận phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần tại công ty, sau khi công ty đã thanh toán hết các khoản nợ, cổ phần ưu đãi hoàn lại khi công ty giải thể hoặc phá sản”. Quy định này cho thấy sự phân biệt đối xử về thứ tự ưu tiên giữa các cổ đông sở hữu các loại cổ phần khác nhau trong việc nhận phần tài sản còn lại khi công ty giải thể hoặc phá sản. Giữa các cổ đông sở hữu các loại cổ phần khác nhau chỉ nên có sự phân biệt về quyền quản trị trong quá trình hoạt động của công ty, còn khi công ty đã giải thể hoặc phá sản, thì việc phân chia tài sản còn lại thiết nghĩ nên được thực hiện theo tỷ lệ cổ phần mà họ sở hữu.
Quyền ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong công ty
Khoản 1 Điều 124 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định
“Chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu là trường hợp công ty tăng thêm số lượng cổ phần được quyền chào bán và bán toàn bộ số cổ phần đó cho tất cả cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty”. Theo đó, Luật Doanh nghiệp 2014 không quy định rõ cổ đông hiện hữu ở đây là tất cả cổ đông công ty (cổ đông phổ thông và các cổ đông ưu đãi) hay chỉ là cổ đông sở hữu loại cổ phần tương ứng mới được hưởng quyền này. Chẳng hạn cổ phần được quyền chào bán tăng thêm là cổ phần phổ thông, thì khi đó chỉ cổ đông phổ thông mới được hưởng quyền ưu tiên mua cổ phần mới hay tất cả cổ đông còn lại cũng được quyền ưu tiên mua. Quy định không rõ như vậy sẽ dẫn đến tình trạng lúng túng khi áp dụng trên thực tiễn, ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền ưu tiên mua cổ phần mới của cổ đông. Theo đó, quyền ưu tiên mua cổ phần mới này chỉ nên áp dụng đối với cổ đông đang sở hữu loại cổ phần tương ứng với cổ phần mới chào bán đó, vì chúng ta không thể đồng nhất quyền giữa các cổ đông sở hữu các loại cổ phần khác nhau.
Một câu hỏi khác được đặt ra, giá bán cổ phần cho các cổ đông có như nhau hay không? Khoản 2 Điều 124 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định về chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu của công ty cổ phần không phải là công ty cổ phần đại chúng, theo đó công ty phải thông báo bằng văn bản đến các cổ đông, trong thông báo phải có nội dung về giá chào bán cổ phần, nhưng lại không quy định cụ thể về mặt bằng chung của giá áp dụng đối với tất cả cổ đông. Sơ hở này của luật rất dễ bị các cổ đông lớn hay Hội đồng quản trị lợi dụng để chèn ép giá đối với các cổ đông nhỏ. Do vậy, Luật Doanh nghiệp cần quy định rõ, công ty mà đại diện là Hội đồng quản trị có nghĩa vụ quy định cụ thể một mức chung về giá áp dụng cho tất cả cổ đông của công ty không phân biệt tỷ lệ sở hữu cổ phần của họ trong thông báo chào bán cổ phần.
Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của cổ đông
Điều 129 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định:
“1. Cổ đông biểu quyết phản đối nghị quyết về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình. Yêu cầu phải bằng văn bản, trong đó nêu rõ tên, địa chỉ của cổ đông, số lượng cổ phần từng loại, giá dự định bán, lý do yêu cầu công ty mua lại. Yêu cầu phải được gửi đến công ty trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Đại hội đồng cổ đông thông qua nghị quyết về các vấn đề quy định tại khoản này.
2. Công ty phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông quy định tại khoản 1 Điều này với giá thị trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì các bên có thể yêu cầu một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Công ty giới thiệu ít nhất 03 tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp để cổ đông lựa chọn và lựa chọn đó là quyết định cuối cùng”.
Để đảm bảo tốt hơn quyền lợi của cổ đông, Luật nên quy định theo hướng không những công ty mà cổ đông cũng có thể giới thiệu tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp để định giá cổ phần mà cổ đông yêu cầu mua lại, không nhất thiết việc này chỉ có thể do công ty lựa chọn.
Cùng với đó, Luật không quy định rõ trong trường hợp này thì chi phí cho tổ chức thẩm định giá sẽ do công ty hay cổ đông gánh chịu, do đó công ty có thể đùn đẩy trách nhiệm này cho cổ đông. Việc mua lại cổ phần trong trường hợp này là nghĩa vụ của công ty nên nếu không thỏa thuận được về giá và phải yêu cầu một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá thì Luật cần quy định rõ chi phí định giá này sẽ do công ty gánh chịu.
Quyền tự do chuyển nhượng cổ phần
Cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 Luật Doanh nghiệp 2014 và Điều lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp Điều lệ công ty có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng
[4]. Như vậy, việc hạn chế chuyển nhượng cổ phần không chỉ do Luật quy định mà Điều lệ cũng có thể quy định thêm về các trường hợp hạn chế chuyển nhượng. Mặc dù điều luật có nêu các quy định này chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng nhưng việc cho phép Điều lệ được quyền quy định thêm các trường hợp hạn chế chuyển nhượng cổ phần này sẽ gây ra nhiều rủi ro cho các cổ đông, đặc biệt là đối với các cổ đông mua cổ phần của các công ty niêm yết vì khi đó cổ phiếu chỉ là dữ liệu điện tử chứ không phải văn bản giấy, ngoài ra không phải cổ đông nào cũng có thể tiếp cận và nghiên cứu kỹ về các quy định trong Điều lệ công ty trước khi tiến hành giao dịch cổ phiếu.
4. Quyền khởi kiện đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc
Trừ khi có lí do đặc biệt, cổ đông rất ít khi chủ động thực hiện quyền khởi kiện người quản lý công ty. Pháp luật dân sự quy định, để yêu cầu bồi thường thiệt hại, người khởi kiện phải chứng minh thiệt hại thực tế và do hành vi vi phạm trực tiếp gây ra. Thực tiễn tố tụng ở Việt Nam cho thấy điều này không dễ dàng thực hiện đối với các cổ đông.
Chi phí tố tụng và thời hạn tố tụng kéo dài tại Tòa án cũng không khuyến khích cổ đông trong công ty khởi kiện. Trong quá trình tranh tụng kéo dài đó, người bị kiện vẫn giữ quyền quản lý, điều hành công ty. Việc khởi kiện nhân danh công ty chỉ được công ty hoàn lại chi phí sau khi yêu cầu khởi kiện được chấp nhận, tức là sau khi thắng kiện. Cổ đông bị bác yêu cầu có thể do nhiều lí do không phải lỗi của họ hay do yêu cầu bất hợp lí, mà có thể do các khó khăn về chứng cứ. Khi đó, việc không được bồi hoàn chi phí sẽ là bất lợi lớn cho cổ đông khởi kiện.
Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp, cổ đông khởi kiện ngoài yêu cầu bồi thường còn nhằm yêu cầu Tòa án buộc người bị kiện thực hiện một hành vi nhất định như trả con dấu công ty, bàn giao sổ sách... Trên thực tế, khả năng thi hành án đối với các yêu cầu cụ thể như vậy thường chậm. Nhiều vụ án không thể thi hành, làm cho quyền lợi của cổ đông và hoạt động của công ty bị ảnh hưởng nặng nề.
Nhìn chung, pháp luật quy định khá đầy đủ và cơ bản quyền của cổ đông và cơ chế thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế tình trạng cổ đông không thể bảo vệ tốt quyền lợi của mình vẫn còn nhiều. Nguyên nhân một phần do nhận thức chưa đầy đủ của chính cổ đông, bên cạnh đó, hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, dẫn đến việc cổ đông gặp khó khăn ngay cả khi chủ động trong việc thực hiện bảo vệ quyền lợi của chí
nh mình./.
Duy Tồn
[2] Khoản 3 Điều 144 Luật Doanh nghiệp 2014.
[3] Điểm b khoản 1 Điều 114 Luật Doanh nghiệp 2014.
[4] Điều 126 Luật Doanh nghiệp 2014.