Căn cứ theo quy định tại Thông tư số 15/2014/TT-BCA, một trong các giấy tờ để chuyển quyền sở hữu xe, gồm “Giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân phải có công chứng theo quy định của pháp luật về công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với chữ ký của người bán, cho, tặng xe theo quy định của pháp luật” . Đối chiếu với quy định cũ thì lần này, Thông tư mới không quy định Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký của người bán, cho, tặng xe, mà “Giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân có xác nhận công chứng hoặc chứng thực”.
Bán, cho, tặng xe là chuyển quyền sở hữu xe từ người này sang người khác, làm phát sinh quyền và trách nhiệm của các bên, phù hợp với quy định “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Việc không quy định bắt buộc chứng thực chữ ký của Ủy ban nhân dân cấp xã đối với Giấy bán, cho, tặng xe đã tạo điều kiện để Ủy ban nhân dân cấp xã được chứng thực như một hợp đồng, giao dịch dân sự, thể hiện đúng bản chất của giao dịch.
Bên cạnh đó, quy định về xe là tài sản chung của vợ chồng tiếp tục được Thông tư 58/2020/TT-BCA tái khẳng định “Chủ xe tự nguyện khai là tài sản chung của vợ chồng, phải ghi đầy đủ họ, tên và chữ ký của vợ, chồng trong giấy khai đăng ký xe; trường hợp xe thuộc tài sản chung của vợ chồng đã đăng ký đứng tên một người, nay có nhu cầu đăng ký xe là tài sản chung của hai vợ chồng: Giấy khai đăng ký xe, có chữ ký của hai vợ chồng thì cơ quan đăng ký xe thu lại giấy chứng nhận đăng ký xe cũ, cấp giấy chứng nhận đăng ký xe mới”. Căn cứ vào Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, việc định đoạt tài sản chung mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu thì phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng. Do đó, trong Giấy bán, cho, tặng xe, thiết nghĩ, phần bên bán cần ghi đầy đủ thông tin và có chữ ký của cả hai vợ chồng.
Minh Tú