Quy định về thẩm quyển và thủ tục của pháp luật về xóa án tích, cấp Phiếu lý lịch tư pháp
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

Quy định về thẩm quyển và thủ tục của pháp luật về xóa án tích, cấp Phiếu lý lịch tư pháp

Xóa án tích là một chế định quan trọng, cơ bản của pháp luật hình sự, thể hiện nguyên tắc nhân đạo và tôn trọng quyền con người. Người được xóa án tích được coi như không có án tích và thuận lợi hơn trong việc tái hòa nhập cộng đồng, sớm ổn định để làm ăn, sinh sống.

1. Khái niệm về xóa án tích
          “Án tích” là thuật ngữ hay được sử dụng trong chuyên ngành luật hình sự. Lần đầu tiên, Nghị quyết số 01-HĐTP ngày 16/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã nêu “Người đã được xóa án thì không coi là có tiền án”, đến Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 quy định: “Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án[1]. Như vậy có thể hiểu nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất của chế định xóa án tích là người được xóa án tích “coi như chưa bị kết án”. Điều đó có nghĩa là từ thời điểm được xóa án tích, họ trở thành người hoàn toàn bình thường về mặt tư pháp, không ai có thể căn cứ vào sự kiện họ đã bị kết án trước đây để hạn chế quyền lợi của họ. Sau khi đã được xóa án tích, các giấy tờ liên quan đến căn cước, lý lịch của họ đề được ghi là “không có án tích” và nếu người đó phạm tội mới thì cũng coi như phạm tội lần đầu. Về mặt xã hội, xóa án tích là một việc làm thể hiện tính nhân văn của nhà nước đối với những người đã bị kết án hình sự, tạo điều kiện cho họ làm lại cuộc đời, giúp họ hòa nhập với cộng đồng, thay đổi bản thân, trở thành người cống hiến cho xã hội.
          2. Quy định về không có án tích
          Khoản 2 Điều 69 và Điều 107 quy định về 05 trường hợp người bị kết án không bị coi là có án tích. Đó là: (1) Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng; (2) Người được miễn hình phạt; (3) Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị kết án không kể về tội gì; (4) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; (5) Người dưới 18 tuổi phạm tội bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
          Như vậy, Bộ luật hình sự năm 2015 đã thu hẹp phạm vi đối tượng xác định mang án tích so với trước đây. Theo đó, đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ khi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và bị áp dụng hình phạt mới phải mang án tích và đối với họ được áp dụng hình thức xóa án tích đương nhiên. Đối với người đã thành niên thì họ phải mang án tích trong trường hợp bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc bị kết án do lỗi cố ý về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
          3. Quy định về đương nhiên xóa án tích trong Bộ luật hình sự
          Điều 70 Bộ luật hình sự 2015 quy định cụ thể như sau:
           “1. Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
          2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
          a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
          b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
          c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
          d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
          Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung”.
          Như vậy, theo quy định nêu trên, thời hạn để tính đương nhiên xóa án tích được xác định kể từ khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án. Đây là quy định mới và có lợi cho người bị kết án trong cách tính thời hạn xóa án tích trong Bộ luật Hình sự năm 2015 vì theo quy định trước đây thì thời hạn xóa án tích được tính khi người phạm tội chấp hành xong bản án.
          Ngoài ra, trong thời hạn xóa án tích thì người bị kết án không được thực hiện hành vi phạm tội mới. Tội phạm mới này có thể là bất kỳ loại tội phạm nào cũng như có thể được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý. Nếu như người bị kết án chưa được xóa án tích lại phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành (khoản 2 Điều 73 Bộ luật Hình sự năm 2015).
          Bên cạnh đó, trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn đương nhiên được xóa án tích theo quy định thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
          4. Xóa án tích theo quyết định của Tòa án (Điều 71):
          Tòa án quyết định xóa án tích cho những trường hợp:
          - Người bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện:
              + Tòa án quyết định xóa án tích căn cứ vào tính chất tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án.
              + Thời hạn xóa án tích theo quyết định của Tòa án được xác định là từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn: (a) 01 năm nếu bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo; (b) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; (c) 05 năm nếu bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm, (d) 07 năm nếu bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
          Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn trên thì thời hạn được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
          Đối với trường hợp người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu, thì sau 01 năm mới được xin xóa án tích; bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì sau 02 năm mới được xin xóa án tích.
          - Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt (Điều 72): người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị, thì Tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật hình sự 2015.
Theo quy định của Bộ luật hình sự trước đây, “Người được xoá án tích coi như chưa bị kết án và được Toà án cấp giấy chứng nhận”. Theo đó, tất cả những người đã chấp hành xong bản án phải được Tòa án cấp giấy chứng nhận thì mới được coi như chưa bị kết án. Nay, Bộ luật hình sự 2015 đã điều chỉnh định nghĩa về người được xóa án tích coi như chưa bị kết án và bỏ đi quy định về việc phải “được Tòa án cấp giấy chứng nhận” cho mọi trường hợp, mà Tòa án chỉ quyết định xóa án tích cho những trường hợp đã nêu ở trên. Việc này đã giải quyết được những khó khăn đối với người chấp hành xong bản án; rút bớt các thủ tục, đồng thời chuyển trách nhiệm cập nhật thông tin về án tích của người bị kết án sang cho các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.
          5. Cấp phiếu lý lịch tư pháp
          Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (bao gồm Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp) có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
          Phiếu lý lịch tư pháp gồm Phiếu lý lịch tư pháp số 1 cấp cho cá nhân, cơ quan, tổ chức và Phiếu lý lịch tư pháp số 2 cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng, cấp theo yêu cầu của cá nhân để người đó biết được nội dung về lý lịch tư pháp của mình.
              - Tình trạng án tích đối với Phiếu lý lịch tư pháp số 1: Đối với người không bị kết án hoặc người được xoá án tích và thông tin về việc xoá án tích đã được cập nhật vào Lý lịch tư pháp thì ghi “không có án tích”. Trường hợp người bị kết án chưa đủ điều kiện được xóa án tích thì ghi “có án tích”, tội danh, hình phạt chính, hình phạt bổ sung;
              - Tình trạng án tích đối với Phiếu lý lịch tư pháp số 2: Đối với người không bị kết án thì ghi là “không có án tích”; Đối với người đã bị kết án thì ghi đầy đủ án tích đã được xoá, thời điểm được xoá án tích, án tích chưa được xóa, ngày, tháng, năm tuyên án, số bản án, Toà án đã tuyên bản án, tội danh, điều khoản luật được áp dụng, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, nghĩa vụ dân sự trong bản án hình sự, án phí, tình trạng thi hành án. Trường hợp người bị kết án bằng các bản án khác nhau thì thông tin về án tích của người đó được ghi theo thứ tự thời gian.
          Thẩm quyền cấp Phiếu lý lịch tư pháp được quy định tại Luật lý lịch tư pháp, cụ thể: Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia thực hiện việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho  công dân Việt Nam mà không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú và người nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam. Sở Tư pháp thực hiện việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho Công dân Việt Nam thường trú hoặc tạm trú ở trong nước; Công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài; Người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam.
          Thành phần hồ sơ được quy định tại Điều 45 Luật lý lịch tư pháp như sau: “1. Người yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp nộp Tờ khai yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp và kèm theo các giấy tờ sau đây: a) Bản chụp giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu của người được cấp Phiếu lý lịch tư pháp; b) Bản chụp sổ hộ khẩu hoặc giấy chứng nhận thường trú hoặc tạm trú của người được cấp Phiếu lý lịch tư pháp.”
          Cá nhân có thể ủy quyền cho người khác làm thủ tục yêuc ầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 1. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản theo quy định của pháp luật; trường hợp người yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp là cha, mẹ, vợ, chồng, con của người được cấp Phiếu lý lịch tư pháp thì khôgn cần văn bản ủy quyền.
Minh Tú

[1] Khoản 1 Điều 69 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi 2017