Khó khăn công tác phổ biến pháp luật tại Đồng bằng sông Cửu Long
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

Khó khăn công tác phổ biến pháp luật tại Đồng bằng sông Cửu Long

Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long mặc dù có vị thế rất quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước; tuy nhiên nhìn chung kinh tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn do điều kiện tự nhiên không thuận lợi: Đất phèn, đất mặn chiếm diện tích lớn (khỏang 60 % diện tích của đồng bằng), phải đầu tư lớn và mất nhiều thời gian để cải tạo; Mùa khô kéo dài (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau), thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt, nạn xâm nhập mặn gây nhiều trở ngại đối với đời sống và sản xuất ở các vùng ven biển... Do vậy, người dân thường chú trọng tập trung làm ăn kinh tế, kiếm sống hàng ngày. Người nghèo, phụ nữ, trẻ em ít được quan tâm, dễ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân gia đình, bình đẳng giới, quyền trẻ em. Vì thế việc PBGDPL cho cộng đồng người dân nơi đây càng cần được quan tâm, chú trọng.

        1. Khó khăn, thách thức
        a. Về tổ chức, điều hành
        Tổ chức và hoạt động của Hội đồng Phối hợp PBGDPL một số địa phương còn chưa thực sự hiệu quả, hoạt động mang tính chất hình thức, thiếu chặt chẽ; chưa phát huy hiệu quả của thiết chế phối hợp trong triển khai công tác PBGDPL. Một số thành viên Hội đồng chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình trong việc tư vấn, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc triển khai công tác PBGDPL. Hội đồng địa phương một số nơi hoạt động còn hình thức, tư vấn về nội dung PBGDPL còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa sát với nhu cầu, chưa gắn với trách nhiệm học tập tìm hiểu pháp luật và hoạt động tập huấn nghiệp vụ của cán bộ, công chức.
        Công tác PBGDPL đôi lúc chưa được quan tâm, đây còn được coi là nhiệm vụ riêng của ngành tư pháp nên chưa được đầu tư nhiều, chưa triển khai mạnh mẽ, đồng bộ và hiệu quả. Việc triển khai Đề án “tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác PBGDPL” còn chậm, dường như mới chỉ dừng lại ở việc ban hành Kế hoạch, chưa triển khai quyết liệt trên thực tế.
        Tác động của công tác PBGDPL trong việc nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn hạn chế. Một bộ phận người dân và cán bộ, công chức, viên chức, người lao động nhận thức pháp luật chưa cao, chưa có thói quen tích cực, tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật; việc xử lý vi phạm đôi khi chưa nghiêm nên chưa tạo được sự chuyển biến rõ rệt trong ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật.
     
        b. Về nhân lực

        Nhân lực thực hiện nhiệm vụ PBGDPL tuy số lượng nhiều nhưng hầu hết là kiêm nhiệm; hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật không đồng đều, còn hạn chế nhất là về kỹ năng, kiến thức pháp luật, đáng quan tâm là đối với của đội ngũ Tuyên truyền viên pháp luật cấp xã...; riêng về kinh phí bồi dưỡng đối với đội ngũ này còn hạn chế, có nơi không có kinh phí.
        c. Về nội dung, hình thức PBGDPL
        Nội dung PBGDPL đôi lúc chưa sát với nhóm đối tượng và nhu cầu được thông tin, tìm hiểu pháp luật của người dân; hình thức các tin, bài chưa thật sự thu hút người đọc, người nghe. Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành mới ngày càng nhiều, việc triển khai đòi hỏi phải được thực hiện trên phạm vị rộng, nhiều nội dung, nhiều hình thức đối với các quy định của các văn bản pháp luật khác nhau, trong khi nguồn nhân lực PBGDPL thiếu về số lượng, chất lượng chưa đồng đều.
        d. Về cơ sở kỹ thuật hạ tầng
        Kinh phí thực hiện công tác PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND hầu hết sử dụng chung trong kinh phí khoán của đơn vị. Đối với các Kế hoạch về thực hiện Đề án PBGDPL, kinh phí thường được sử dụng chung trong kinh phí khoán, kinh phí hoạt động được cấp hàng năm của cơ quan hoặc lồng ghép vào các chương trình, Đề án khác; cấp xã, kinh phí còn hạn chế hơn, phụ thuộc vào việc thu ngân sách của địa phương. Trong khi các nhiệm vụ thực hiện Đề án, đặc biệt là nhiệm vụ xây dựng Cổng thông tin điện tử/Trang thông tin điện tử về PBGDPL cần nguồn kinh phí rất lớn để xây dựng, vận hành, viết tài liệu, đăng tin, bài… gây khó khăn cho địa phương.
        Cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu. Một số địa phương chưa có chuyên mục riêng cho PBGDPL, hoặc nội dung sơ sài, chậm cập nhật, đường truyền không ổn định, nhiều khi bị lỗi, gây khó khăn cho người dân khi tiếp cận thông tin pháp luật.


         2. Đề xuất giải pháp
        a. Về thể chế:  
        Một là, hoàn thiện các quy định của pháp luật về công tác PBGDPL. Cụ thể cần nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm quy định rõ hơn về tổ chức, tài chính, trách nhiệm, quyền hạn của các cấp, các ngành trong lĩnh vực PBGDPL; quy định và hướng dẫn cụ thể về cơ cấu tổ chức, chế độ, chính sách của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động PBGDPL.
         Hai là, hoàn thiện cơ cấu, tổ chức của các cơ quan chuyên trách về hoạt động PBGDPL. Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, số lượng biên chế công chức phụ trách lĩnh vực PBGDPL thuộc phòng Tư pháp. Nghiên cứu thành lập Ban Thông tin và Truyền thông ở cấp xã để thực hiện công tác thông tin, truyền thông, trong đó có nội dung truyền thông về pháp luật. Đối với các ngành cấp tỉnh cần có ít nhất 01 biên chế có trình độ cử nhân luật thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho lãnh đạo đơn vị và trực tiếp thực hiện các hoạt động PBGDPL thuộc phạm vi ngành quản lý.
         Ba là, quy định chính sách tài chính hợp lý phục vụ cho hoạt động PBGDPL. Quy định rõ tỷ lệ phần trăm (%) kinh phí trong tổng ngân sách được cấp dành riêng để triển khai công tác PBGDPL và chuẩn tiếp cận pháp luật, hoặc quy định kinh phí dành cho công tác PBGDPL dựa trên tiêu chí dân số và điều kiện kinh tế - xã hội. Tiến hành sửa đổi một số mức chi đảm bảo hoạt động PBGDPL cho phù hợp với tình hình thực tế cũng như tương xứng với công sức của đội ngũ những người thực hiện công tác PBGDPL nhằm động viên, khích lệ, thu hút đội ngũ này tích cực tham gia công tác PBGDPL. Có chính sách phù hợp để khuyến khích, huy động đông đảo lực lượng xã hội tham gia công tác PBGDPL. Quy định chế độ, chính sách đối với đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật tương xứng với công sức của họ bỏ ra để khuyến khích thực hiện nhiệm vụ.
        Bốn là, đầu tư kinh phí, xây dựng các chương trình, dự án phục vụ cho hoạt động PBGDPL. Cần quan tâm đến các điều kiện bảo đảm khi xây dựng, ban hành các chương trình, đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật. Quy định rõ trách nhiệm khen thưởng, kỷ luật, đánh giá, xếp loại hoàn thành nhiệm vụ đối với các tập thể, cá nhân tham gia thực hiện, trong đó chú trọng đến việc xác định vai trò của người lãnh đạo.
        b. Về tổ chức, điều hành:
        Tăng cường quán triệt, phổ biến nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vị trí, vai trò, ý nghĩa của Hiến pháp và pháp luật trong quản lý đất nước, phát triển kinh t ế - xã hội, bám sát theo nội dung, tinh thần Kết luận số 80-KL/TW của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW cũng như Quyết định số 1521/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ;
        Các cơ quan chức năng kiên quyết xử lý nghiêm khắc mọi hành vi vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh. Tích cực vận động nhân dân và các tổ chức xã hội trên địa bàn tham gia vào các hoạt động phòng chống vi phạm pháp luật. Quy trách nhiệm, xử lý nghiêm khắc đối với những tổ chức, cá nhân có thẩm quyền mà có hành vi thiếu trách nhiệm, bao che, dung túng cho các hành vi vi phạm pháp luật.
        Chú trọng công tác thi đua, khen thưởng đối với những tập thể, cá nhân có thành tích suất sắc trong hoạt động PBGDPL. Xây dựng tiêu chí, đối tượng, chỉ tiêu cụ thể để xét khen thưởng đối với những tập thể, cá nhân có thành tích suất sắc trong công tác PBGDPL.


      
         b. Về nhân lực
:
        Chú trọng xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật tại cơ sở. Quan tâm đến các thành phần là người dân tộc thiểu số, các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Định kỳ rà soát, đánh giá thực trạng hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật để xây dựng kế hoạch củng cố, kiện toàn đội ngũ này trên tinh thần mọi ngành, mọi cơ quan đơn vị, mọi tổ chức, mọi khu vực, mọi địa bàn dân cư đều có báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật hoạt động. Định kỳ đánh giá chất lượng hoạt động, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ để xây dựng các chương trình, đề án đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ này. Huy động các trưởng xóm, ấp, người có uy tín trong cộng đồng, trong dòng họ tham gia công tác phổ biến pháp luật.
         c. Về nội dung, hình thức PBGDPL:
         - Tiếp tục đổi mới, đa dạng nội dung, hình thức triển khai công tác PBGDPL, tránh phô trương, hình thức để đây thực sự trở thành công việc thường xuyên, hàng ngày của mỗi người; phát huy đầy đủ vai trò tư vấn định hướng trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai xây dựng các mô hình PBGDPL gắn với triển khai nhiệm vụ công tác PBGDPL của Hội đồng phối hợp PBGDPL các cấp;
         - Tiếp tục lồng ghép PBGDPL trong các hoạt động trợ giúp pháp lý, hoà giải ở cơ sở, khai thác tủ sách pháp luật, sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, triển khai các Đề án, Chương trình, Kế hoạch của Trung ương
         - Căn cứ vào đối tượng, nhu cầu thực tiễn, lựa chọn những vấn đề, nội dung pháp luật mới, được người dân quan tâm để xây dựng các chương trình, sản phẩm, tài liệu, ấn phẩm PBGDPL đăng tải lên Cổng hoặc Trang thông tin điện tử PBGDPL; phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, thí điểm và thực hiện PBGDPL trên mạng xã hội, mạng viễn thông; đẩy mạnh hoạt động PBGDPL trên các diễn đàn giao lưu trực tuyến, phương tiện thông tin đại chúng;
         - Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật số, tích cực thực hiện các giải pháp chuyển đổi số trong quá trình xây dựng, nhân rộng các mô hình PBGDPL hiệu quả; đẩy mạnh huy động mọi nguồn lực trong xã hội tham gia vào công tác PBGDPL./.
Hà My