Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, nhiều bậc cha mẹ đã không thể làm tròn nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con cái của mình, nên xã hội nào cũng có trẻ mồ côi, không nơi nương tựa. Việt Nam cũng không ngoại lệ, số lượng các cơ sở bảo trợ xã hội trên thực tế không đủ để nuôi dưỡng, chăm sóc những trẻ em này. Trong khi đó, có những cặp vợ chồng mong muốn có con nhưng lại không thể sinh con mà phải nhận con nuôi vẫn ngày một nhiều lên.
Để đáp ứng nhu cầu của các bên và xã hội, năm 2010, Quốc hội đã tách quy định về nuôi con nuôi ra khỏi Luật Hôn nhân và gia đình để ban hành riêng Luật Nuôi con nuôi (có hiệu lực từ 01 tháng 01 năm 2011).
I. Tình hình chung
Khu vực phía Nam theo phân cấp quản lý của Bộ Tư pháp cho Cục Công tác phía Nam gồm 25 tỉnh, thành phố từ Phú Yên đến Cà Mau – là địa bàn trọng điểm của cả nước trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, tuy nhiên điều kiện phát triển của nhiều địa phương trong khu vực không đồng đều, nhiều tỉnh còn khó khăn về kinh tế - xã hội, Đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn là điểm trũng của giáo dục so với cả nước. Điều kiện giao thông đi lại hết sức khó khăn.
Theo số liệu thống kê, từ năm 2011 đến cuối năm 2020, khu vực phía Nam có 6.202 trường hợp nuôi con nuôi trong nước và 2.875 trường hợp nuôi con nuôi nước ngoài.
Những nước nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi đều là những nước có ký Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực con nuôi với Việt Nam..
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài diễn ra không đồng đều giữa các tỉnh thành trong khu vực, chủ yếu tập trung ở TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đồng Nai, Bình Dương.
II. Đánh giá việc thi hành Luật Nuôi con nuôi và Công ước La Hay tại khu vực phía Nam
2.1. Kết quả đạt được
Từ năm 2011 đến 2020, khu vực phía Nam đã giải quyết 2.875 trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trong đó trẻ em sống trong cơ sở nuôi dưỡng được người nước ngoài nhận nuôi chiếm trên 85% và chủ yếu là trẻ có bệnh, khuyết tật, có nhu cầu đặc biệt.
Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch Covid – 19, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố trên cả nước tổ chức 02 đợt bàn giao trẻ em
[2] cho các gia đình cha mẹ nuôi ở các nước Liên minh Châu Âu, được Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam, Đại sứ quán các nước, gia đình cha mẹ nuôi đánh giá cao nỗ lực, thiện chí của Việt Nam trong việc bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Trước năm 2018, các địa phương đều thực hiện chỉ định cơ sở nuôi dưỡng trẻ em được làm nhiệm vụ và giới thiệu trẻ em cho làm con nuôi người nước ngoài theo đúng quy định. Kể từ khi thực hiện Chỉ thị 03/CT-TTg và Nghị định số 24/2019/NĐ-CP, Sở Tư pháp và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố đã hướng dẫn các cơ sở bảo trợ xã hội
(không phân biệt công lập hay ngoài công lập) rà soát danh sách trẻ em hiện chăm sóc, nuôi dưỡng tại đơn vị để đánh giá việc trẻ em cần tìm gia đình thay thế. Tuy nhiên, trong thực tế, những cơ sở bảo trợ xã hội đã được chỉ định trước đây có thực hiện tìm gia đình thay thế ở nước ngoài cho trẻ em, còn các cơ sở bảo trợ xã hội khác rất ít tham gia thực hiện giới thiệu trẻ em cho làm con nuôi người nước ngoài.
Việc tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở các cơ sở nuôi dưỡng được Sở Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn, giám sát, đảm báo tính công khai, minh bạch, đúng pháp luật, không gắn việc tiếp nhận hỗ trợ nhân đạo với việc nhận trẻ em làm con nuôi. Nhìn chung, việc tiếp nhận, quản lý sử dụng các khoản phí, tài sản hỗ trợ nhân đạo được sử dụng hợp lý, thực hiện đúng quy định, không nhận được khiếu nại, tố cáo.
2.2. Về thực hiện quy định về tài chính trong lĩnh vực nuôi con nuôi
Các địa phương đều nghiêm túc thực hiện quản lý và sử dụng các nguồn lệ phí, chi phí giải quyết hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo quy định.
Theo đó, Sở Tư pháp trực tiếp tiếp nhận khoản chi phí liên quan đến giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài do Cục Con nuôi điều chuyển theo quy định tại Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 3 năm 2011 của Chính phủ. Sau khi thực hiện Thông tư liên tịch số 146/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 07 tháng 9 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực nuôi con nuôi thi khoản chi phí này được chuyển về tài khoản của Kho bạc nhà nước cấp tỉnh. Khi tiếp nhận nguồn lệ phí giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài từ Cục Con nuôi – Bộ Tư pháp chuyển về thông qua Kho bạc nhà nước, Sở Tư pháp đã thông báo và chuyển phần chi phí giải quyết nuôi con nuôi cho cơ sở nuôi con nuôi có trẻ được người nước ngoài nhận nuôi và chi cho việc xác minh, tổ chức lấy ý kiến người liên quan … theo quy định.
Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2017, lệ phí được thực hiện theo Nghị định số 114/2016/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ quy định lệ phí đăng ký nuôi con nuôi, lệ phí cấp giấy phép hoạt động của tổ chức nuôi con nuôi nước ngoài. Theo đó, lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài được chuyển về địa phương, Sở tài chính có trách nhiệm thông báo cho Sở Tư pháp, cơ sở nuôi dưỡng trên địa bàn để thực hiện việc rút dự toán chi tiêu trong phạm vi số kinh phí được điều chuyển.
III. Vai trò quản lý nhà nước của Sở Tư pháp và các đơn vị liên quan trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về đăng ký nuôi con nuôi
1. Vai trò của các Sở Tư pháp
Với vai trò là cơ quan tham mưu giúp cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa phương, Sở Tư pháp các địa phương đã thực sự làm tốt nhiệm vụ của mình trong việc xây dựng các văn bản triển khai, chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn thực hiện Luật Nuôi con nuôi và Công ước La Hay như Kế hoạch triển khai Luật Nuôi con nuôi; Kế hoạch triển khai đăng ký nuôi con nuôi thực tế theo quy định của Luật Nuôi con nuôi; Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế; Kế hoạch triển khai Nghị định số 24/2019/NĐ-CP; Quy chế phối hợp hiên ngành giữa các cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc giải quyết nuôi con nuôi có yéu tố nước ngoài; Danh mục thủ tục hành chính được chuẩn hoá lĩnh vực nuôi con nuôi; Quy trình nội bộ giải quyết thủ tục hành chính chuẩn hoá lĩnh vực nuôi con nuôi áp dụng tại các cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi ...
Công tác quản lý nhà nước đối với quan hệ nuôi con nuôi đã từng bước được nâng cao hiệu lực, hiệu quả; công tác giáo dục, tuyên truyền, phối hợp giữa các ban ngành được triển khai thường xuyên, đồng bộ hơn; việc đăng ký nuôi con nuôi trong nước, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài về cơ bản đã đi vào nền nếp, bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc, cho làm con nuôi nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế trong nước và đặc biệt bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của con nuôi và cha mẹ nuôi, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi được công khai, minh bạch, đảm bảo sự chặt chẽ theo pháp luật, đảm bảo cải cách thủ tục hành chính. Khi thụ lý giải quyết hồ sơ, đều hướng dẫn, giải thích đầy đủ quy định nhà nước về quyền, nghĩa vụ, đặc biệt quan tâm đến quyền lợi của trẻ em.
Các địa phương trong khu vực cũng đã quan tâm kiện toàn, củng cố đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã, Phòng Hành chính tư pháp (Phòng Nghiệp vụ) thuộc Sở Tư pháp, bố trí biên chế hợp lý, bảo đảm chất lượng, đáp ứng được công việc trong thời gian qua.
Song song đó các địa phương đã đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho công dân Việt Nam như Luật Trẻ em, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Nuôi con nuôi và các văn bản pháp luật liên quan ... nên số lượng vi phạm trong lĩnh vực nuôi con nuôi gần như không đáng kể.
2. Vai trò của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và các cơ quan chức năng
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cùng các cơ quan chức năng của tỉnh như Công an, Sở Nội vụ đã cùng với Sở Tư pháp thực hiện nhiều biện pháp để thực hiện tốt nhất việc nuôi con nuôi, như:
- Hướng dẫn các Trung tâm bảo trợ xã hội, cơ sở nuôi dưỡng, Uỷ ban nhân dân quận, huyện, phường, xã, trị trấn trong việc tiếp nhận trẻ em bị bỏ rơi vào cơ sở nuôi dưỡng đúng quy định tại Điều 25 Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội; kiểm soát chặt chẽ hồ sơ đầu vào của trẻ; thường xuyên rà soát, lập hồ sơ tìm gia đình thay thế cho trẻ em ở trong nước, nước ngoài nhằm tăng cường công tác giải quyết việc nuôi con nuôi trong tình hình mới theo Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 19 tháng 01 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ,
- Nâng cao kiến thức về phòng chống mua bán phụ nữ và trẻ em đến tận khóm, ấp cho người dân trong địa phương, nhất là phụ nữ để góp phần tăng cường nhận thức đúng đắn hơn về cuộc sống gia đình, chăm sóc con cái...
- Công an được giao trách nhiệm thẩm tra, xác minh rõ nguồn gốc trẻ em bị bỏ rơi theo đúng quy định tại Điều 33 Luật Nuôi con nuôi. Trong thời gian đầu mới thực hiện, công an nhiều địa phương còn khó khăn, lúng túng, nhưng nay đã đi vào nề nếp, có sự phối hợp nhịp nhàng, có sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan.
- Uỷ ban nhân dân cấp huyện tăng cường tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết nuôi con nuôi cho công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã, cử công chức tham dự các lớp tập huấn chuyên đề, tham dự các hội nghị thảo luận những khó khăn, vướng mắc trong đăng ký hộ tịch, đăng ký nuôi con nuôi nên nhìn chung các công chức Tư pháp – Hộ tịch đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, trong đó có lĩnh vực nuôi con nuôi.
IV. Tồn tại hạn chế và những yêu cầu nhiệm vụ đặt ra
1. Tồn tại hạn chế
Tầm quan trọng của quan hệ nuôi con nuôi ngày càng thể hiện rõ nét khi quan hệ gia đình không chỉ được hình thành dựa trên hiện tượng mang tính tự nhiên như kết hôn, sinh con (thiết lập nên mối quan hệ giữa cha, mẹ đẻ và con đẻ), mà gia đình còn có thể tạo nên việc một người độc thân, hoặc hai người là vợ chồng nhận một đứa trẻ làm con nuôi
[3]. Bản chất của quan hệ nuôi con nuôi không chỉ thể hiện tinh thần nhân đạo mà nó còn ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Một số quy định pháp luật về nuôi con nuôi chưa phù hợp với thực tiễn hiện nay, chưa đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật như về thủ tục đăng ký nhận nuôi con nuôi, vấn đề quốc tịch của trẻ em là con nuôi, về thay đổi, bổ sung hộ tịch, lệ phí hành chính...đã và đang ảnh hưởng đến quyền được nhận làm con nuôi của trẻ cũng như mong muốn nhận trẻ làm con nuôi
(sẽ được phân tích rõ hơn tại phần 2 – những yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể đặt ra).
Chính vì vậy, hệ thống các quy định về điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi, của trẻ và những thủ tục cần thiết cần phải được xây dựng một cách chặt chẽ, khoa học, không làm
“khó” cho công chức thực hiện, cũng như không làm cản trở quyền được nhận làm con nuôi của đứa trẻ.
2. Những yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể đặt ra
2.1. Về đăng ký nuôi con nuôi trong nước
- Để chứng minh đủ điều kiện nhận nuôi theo quy định của Điều 14 Luật Nuôi con nuôi, người nhận con nuôi phải có đầy đủ các giấy tờ theo quy định tại Điều 17 Luật Nuôi con nuôi. Cụ thể:
+ Phiếu lý lịch tư pháp là thành phần hồ sơ của người nhận con nuôi trong mọi trường hợp, kể cả cha dượng/mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng làm con nuôi là chưa phù hợp. Vì thực tế, đứa trẻ vẫn về ở với cha đẻ/mẹ kế hoặc cha dượng/mẹ đẻ cho dù có hay không việc đăng ký nuôi con nuôi với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cha đẻ/mẹ đẻ vẫn là người trực tiếp bảo vệ đứa trẻ dưới một mái ấm gia đình bên cạnh các cơ chế bảo vệ khác theo quy định của pháp luật hiện hành
[4].
Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật về lý lịch tư pháp thì thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp là 10-15 ngày
[5] hoặc trong trường hợp trẻ bị bỏ rơi (đang trong giai đoạn thông báo theo quy định của pháp luật về hộ tịch, thời hạn niêm yết là 7 ngày), nay có người muốn nhận trẻ làm con nuôi trước khi trẻ được đưa vào cơ sở nuôi dưỡng nhưng để hoàn thiện hồ sơ thì phải có Phiếu lý lịch tư pháp. Ngoài ra, việc nuôi con nuôi không chỉ diễn ra tại các đô thị, giao thông thuận tiện mà có thể diễn ra tại khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng núi, việc đến Sở Tư pháp tỉnh để xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp không đơn giản...Với quy định hồ sơ nuôi con nuôi của người nhận nuôi phải có Phiếu lý lịch tự pháp trong những trường hợp trên sẽ ảnh hưởng đến việc hoàn thiện hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi của người có yêu cầu, kéo dài thời gian trẻ phải sống tại cơ sở nuôi dưỡng hoặc cá nhân khác mà không phải là cha mẹ nuôi.
+ Văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp: Trên thực tế, có nhiều trường hợp người nhận con nuôi không thực tế cư trú tại nơi đăng ký thường trú, hoặc không có nơi đăng ký thường trú, hoặc nơi có tài sản không phải là nơi đăng ký thường trú, hoặc hai vợ chồng không cùng một nơi đăng ký thường trú sẽ gặp khó khăn trong việc xác nhận chỗ ở, điều kiện kinh tế. Thậm chí cũng chưa có tiêu chí để xác định
“điều kiện kinh tế”, “chỗ ở bảo đảm cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giao dục con nuôi”, nên mỗi địa phương áp dụng theo một cách khác nhau (dựa vào việc người nhận con nuôi có việc làm hoặc có thu nhập ổn định, ...).
- Việc lấy ý kiến của những người có liên quan về việc cho trẻ em làm con nuôi: Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi thì việc nhận con nuôi phải được sự đồng ý cùa cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ được nhận làm con nuôi. Tuy nhiên, hoàn cảnh của trẻ được cho làm con nuôi thường rất
“éo le” như mẹ đơn thân sinh con ngoài mong muốn, hoàn cảnh gia đình trẻ quá khó khăn, cha mẹ đều chết không thể nuôi con được... nên việc lấy ý kiến đa số các trường hợp không thể thực hiện được, cụ thể: cha, mẹ đẻ cho trẻ làm con nuôi nhưng chỉ trao tay, viết giấy tay hoặc đưa Giấy chứng sinh cho người nhận nuôi (có thể ghi đúng thông tin hoặc không đúng thông tin về tên, địa chỉ), ngăn chặn mọi liên lạc với người nhận... Khi thực hiện đăng ký nuôi con nuôi, Ủy ban nhân dân cấp xã không thể liên hệ với cha, mẹ đẻ của trẻ để lấy ý kiến theo quy định và pháp luật cũng chưa quy định việc lấy ý kiến những người thân thích của trẻ. Do vậy, chưa đảm bảo nguyên tắc và thứ tự giải quyết việc nuôi con nuôi theo quy định tại Điều 4,5 Luật Nuôi con nuôi.
- Về hồ sơ của trẻ được nhận làm con nuôi: Theo quy định tại Điều 18 Luật Nuôi con nuôi, hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi trong nước bao gồm
“Biên bản xác nhận do Ủy ban nhân dân hoặc Công an xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ bị bỏ rơi...”. Trong thực tế, do nhiều yếu tố (nhận thức pháp luật của người dân hạn chế, khó khăn của cơ quan chức năng, không liên hệ được với cha, mẹ đẻ của trẻ,...) nên khi phát hiện trẻ bị bỏ rơi, người dân đã không báo cho Công an hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em bị bỏ rơi để lập biên bản mà tự ý mang về nhà nuôi dưỡng, đến khi trẻ em đi học, làm Thẻ bảo hiểm y tế thì mới liên hệ Ủy ban nhân dân cấp xã để đăng ký khai sinh cho trẻ, đăng ký nhận con nuôi, dẫn đến việc xác định nguồn gốc và tình trạng của trẻ bị bỏ rơi khó khăn.
Theo quy định tại Điều 15 Luật Nuôi con nuôi quy định trách nhiệm tìm gia đình thay thế cho trẻ em, theo đó, trẻ em có cha, mẹ đẻ, người thân thích khôgn có khả năng nuôi dưỡng thì báo với Ủy ban nhân dân cấp xã để tìm gia đình thay thế cho trẻ em, nhưng tiêu chí để xác định
“không có khả năng nuôi dưỡng” chưa được quy định, nên khó khăn cho địa phương khi áp dụng pháp luật.
- Về thay đổi, bổ sung hộ tịch: Việc thay đổi hộ tịch trước đây được thực hiện theo quy định tại Nghị định 19/2011/NĐ-CP và hiện nay là Nghị định 24/2019/NĐ-CP bao gồm thay đổi họ, chữ đệm và tên của con nuôi, bổ sung thông tin về cha mẹ nuôi và thay đổi thông tin từ cha mẹ đẻ sang cha mẹ nuôi trong Giấy khai sinh của con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật về hộ tịch. Tuy nhiên, ngoài những thông tin trên được phép thay đổi thì những thông tin còn lại không được phép thay đổi như thông tin về dân tộc, quê quán
[6]. Nếu cha, mẹ nuôi và con nuôi không cùng một dân tộc, quê quán và không được phép thay đổi thì việc để tên cha, mẹ nuôi trong Giấy khai sinh với tư cách là cha mẹ trong Giấy khai sinh của con nuôi không có ý nghĩa.
Bên cạnh đó, từ năm 2015, thực hiện Luật Hộ tịch thì bản chính Giấy khai sinh chỉ được cấp một lần, do vậy, khi thực hiện thay đổi các nội dung trong Giấy khai sinh thì các nội dung thay đổi được ghi vào mặt sau Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh dễ gây ảnh hưởng đến tâm lý của cha mẹ nuôi và con nuôi.
Ngoài ra, Luật Nuôi con nuôi cũng chưa quy định rõ trường hợp người độc thân xác lập quan hệ nuôi con nuôi với trẻ, sau đó người cha hoặc mẹ nuôi đó kết hôn, phát sinh mong muốn thêm vào phần khai sinh của người con nuôi với mục đích nhằm đảm bảo người con nuôi được đủ cha, đủ mẹ.
- Về theo dõi tình hình phát triển con nuôi: Theo quy định tại Điều 23 Luật Nuôi con nuôi
“Sáu tháng một lần, trong thời hạn ba năm, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ nuôi có trách nhiệm thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ thường trú về tình trạng sức khỏe, thể chất, tinh thần, sự hòa nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng...”. Tuy nhiên, quy định này vẫn còn mang tính hình thức và rất khó thực hiện trong thực tế, bởi có rất nhiều trường hợp gia đình cha mẹ nuôi đến tạm trú, sinh sống, làm ăn tại nơi khác hoặc ý thức, điều kiện của người dân không đảm bảo hoặc người dân không thực hiện báo cáo cho Uỷ ban nhân dân nhưng chưa có chế tài trong trường hợp người dân không thực hiện quy định này.
- Việc đăng ký nhu cầu nhận nuôi con nuôi: Điều 16 Luật Nuôi con nuôi quy định:
“Công dân Việt Nam có nguyện vọng và đủ điều kiện nhận con nuôi theo quy định của Luật này nhưng chưa tìm được trẻ em để nhận làm con nuôi thì đăng ký nhu cầu nhận nuôi con nuôi với Sở Tư pháp nơi người đó thường trú; nếu có trẻ em để giới thiệu làm con nuôi thì Sở Tư pháp giới thiệu đến Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em đó thường trú để xem xét, giải quyết”. Trên thực tế, người dân có nhu cầu nhận trẻ em làm con nuôi khá nhiều nhưng họ không muốn đến cơ quan nhà nước để đăng ký nhu cầu. Nhiều người dân khi nhận trẻ em làm con nuôi ở cơ sở nuôi dưỡng thường muốn biết mặt trẻ trước khi nhận làm con nuôi nên thường liên hệ trực tiếp với cơ sở nuôi dưỡng mà không nộp hồ sơ tại Sở Tư pháp nên Sở Tư pháp thông báo tìm mái ấm gia đình thay thế, hầu như không có người trong nước nhận nuôi. Đồng thời, nhiều Cơ sở nuôi dưỡng (nhất là cơ sở ngoài công lập) chưa lập danh sách trẻ em có nhu cầu tìm gia đình thay thế xin ý kiến cơ quan chủ quản để gửi Sờ Tư pháp thông báo theo quy định.
- Về chấm dứt việc nuôi con nuôi: Điều 25 Luật Nuôi con nuôi quy định các trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi khi con nuôi đã thành niên, cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi hoặc con nuôi/cha mẹ nuôi bị kết án khi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi/con nuôi
[7] mà chưa quy định trường hợp cha mẹ nuôi không còn đủ điều kiện nuôi dưỡng, chết hoặc trẻ không hòa nhập được với gia đình mới
[8] hoặc có người khác muốn nhận trẻ em làm con nuôi.
Ngoài ra, có những trường hợp trẻ em sống tại cơ sở nuôi dưỡng được gia đình trong nước nhận làm con nuôi, sau một thời gian không hòa nhập được, có sự chán nản, cha mẹ nuôi không quan tâm đến con nuôi, con nuôi rơi vào mặc cảm, ảnh hưởng đến tâm lý phát triển bình thường của trẻ. Vì vậy. cha mẹ nuôi thỏa thuận giao trẻ lại cho Cơ sở nuôi dưỡng những những trẻ này sẽ không thể làm con nuôi người khác được nữa.
Bên cạnh đó, Luật Nuôi con nuôi cũng chưa quy định trình tự, thủ tục, thẩm quyền thu hổi, hủy bỏ đối với Giấy chứng nhận nuôi con nuôi do Ủy ban nhân dân cấp xã cấp hoặc Quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp trong những trường hợp vi phạm về quy trình, thủ tục, thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi mà phải vận dụng Luật Tổ chức chính quyền địa phương để giải quyết.
2.2. Về đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài
- Xác định trẻ em thuộc diện được giải quyết đích danh: Theo quy định, việc đăng ký nuôi con theo diện cha dượng/mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng phải có văn bản lấy ý kiến đồng ý
[9], nhưng nếu phát sinh mối quan hệ cha mẹ, con nuôi với công dân Đài Loan thì pháp luật Đài Loan lại yêu cầu người dân phải cung cấp Giấy đồng ý nhận trẻ em làm con nuôi có chứng thực chữ ký. Trong khi Giấy đồng ý cho trẻ em làm con nuôi được quy định mẫu tại Thông tư số 12/2011/TT-BTP
[10] đã hết hiệu lực thi hành, chưa có văn bản hướng dẫn mới.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị định số 24/2019/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ:
“Trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo được nhận đích danh làm con nuôi theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi, gồm trẻ em bị sứt môi, hở hàm ếch; trẻ em bị mù một hoặc cả hai mắt; trẻ em bị câm, điếc; trẻ em bị khoèo chân, tay; trẻ em không có ngón hoặc bàn chân, tay; trẻ em nhiễm HIV; trẻ em mắc các bệnh về tim; trẻ em không có hậu môn hoặc bộ phận sinh dục; trẻ em mắc các bệnh về máu; trẻ em bị khuyết tật khác hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác cần điều trị khẩn cấp hoặc cả đời”. Tuy nhiên, quy định trên chưa được cụ thể, ví dụ như nhóm trẻ em mắc các bệnh về tim, về máu, trẻ bị khuyết tật khác cần điều trị khẩn cấp hoặc cả đời nhưng không liệt kê được các loại bệnh lý cụ thể thì được giải quyết đích danh hay cần thực hiện theo thủ tục giới thiệu; hay phải đưa trẻ đến bệnh viện tuyến trên để được bác sĩ chuyên khoa khám chuyên sâu, có kết luận rõ ràng, chi phí cho việc xác định là rất lớn, gây cho các cơ sở trợ giúp xã hội gặp khó khăn về tài chính. Điều này làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của trẻ, mất nhiều thời gian tìm gia đình thay thế cho trẻ.
- Về thay đổi, bổ sung hộ tịch: Giống đăng ký nuôi con nuôi trong nước
- Về quốc tịch: Luật Quốc tịch Việt Nam quy định
“Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận nuôi thì vẫn giữ quốc tịch Việt Nam” và
“Trẻ em là người nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có quốc tịch Việt Nam, kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận việc nuôi con nuôi”[11]. Đối với trẻ em đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi sẽ có quốc tịch Việt Nam nếu người đó đồng ý có quốc tịch Việt Nam
[12]. Do vậy, nếu những nước thừa nhận hai quốc tịch trở lên thì trẻ có quốc tịch Việt Nam và quốc tịch nước ngoài, nhưng nếu nước đó chỉ thừa nhận một quốc tịch thì trẻ có thể chỉ có quốc tịch Việt Nam mà không có quốc tịch nước trẻ được nhận làm con nuôi
[13].
2.3. Khó khăn khác
- Số lượng
trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi hiện nay đang được các cơ sở nuôi dưỡng ngoài công lập, cơ sở thờ tự, tôn giáo tại các đô thị là khá lớn, nhưng chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về chăm sóc, nuôi dưỡng cũng như tìm gia đình thay thế cho trẻ tại những nơi này, nên mỗi nơi thực hiện một cách khác nhau, khó khăn cho công tác quản lý nhà nước.
- Thủ tục hành chính cấp tỉnh tại Quyết định số 2394/QĐ-BTP
[14] và Quyết định số 169/QĐ-BTP
[15] ngày 04/02/2021
chưa có sự thống nhất. Cụ thể, tại Quyết định số 2394/QĐ-BTP hai thủ tục: (1) Giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đối với trẻ em sống ở cơ sở nuôi dưỡng; (2) Giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đối với trường hợp cha dượng/mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng; cô, cậu, dì, chú , bác ruột nhận cháu làm con nuôi, hai thủ tục này thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ Tư pháp và Cơ quan giải quyết là Bộ Tư pháp, nhưng tại Quyết định số 169/QĐ-BTP lại thuộc thẩm quyền của Sở Tư pháp. Việc quy định thẩm quyền của Sở Tư pháp như Quyết định số 169/QĐ-BTP sẽ gây khó khăn khi thực hiện, bởi lẽ (1) Sở Tư pháp phải thông tin tìm gia đình thay thế cho trẻ trong khi Cục Con nuôi chưa chuyển hồ sơ người nhận con nuôi cho Sở Tư pháp và (2) Sở Tư pháp không thể đi lấy ý kiến được vì chưa biết ai là người nhận nuôi trẻ.
V. Kiến nghị
Nuôi con nuôi là một trong những nền tảng quan trọng của phát triển xã hội. Vì vậy, quan hệ nuôi con nuôi luôn được điều chỉnh bởi các quy định chặt chẽ. Các bên trong quan hệ nuôi con nuôi buộc phải tuân thủ đầy đủ các quy định này. Tuy nhiên, không ai có thể ép buộc một người tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi nếu điều này không xuất phát từ ý chí tự nguyện của người đó. Chính vì vậy, những giải pháp cần thực hiện không nhằm mục đích hạn chế, ngăn cản nuôi con nuôi mà nhằm bảo vệ quan hệ nuôi con nuôi liên quan đến nhân thân và còn các quan hệ về tài sản. Theo chúng tôi cần tập trung vào các giải pháp cơ bản sau:
1. Mặc dù chưa quy định rõ về hình thức nuôi con nuôi nhưng những điều chỉnh của pháp luật hiện nay đang thừa nhận một hình thức nuôi con nuôi đơn giản tại Việt Nam. Trong khi đó, Công ước La Hay 1993 mà Việt Nam là thành viên cũng có quy định về hệ quả pháp lý là chấm dứt quan hệ pháp lý trước đó của trẻ em được nhận nuôi để đảm bảo con nuôi được hưởng trọn vẹn, đầy đủ các quyền, lợi ích trong quan hệ với cha mẹ nuôi và với các thành viên của gia đình cha mẹ nuôi như con đẻ, không bị phân biệt, bị mặc cảm, trẻ cũng đương nhiên có quốc tịch theo nước tiếp nhận, theo như tinh thần mục đích nuôi con nuôi tại Điều 2 Luật Nuôi con nuôi. Do vậy, pháp luật về nuôi con nuôi nên nghiên cứu quy định hai hình thức nuôi con nuôi là nuôi con nuôi đầy đủ và nuôi con nuôi đơn giản để áp dụng cụ thể trong từng trường hợp
[16].
2. Thủ tục hành chính quá rườm rà, tốn thời gian, lệ phí đăng ký nuôi con nuôi trong nước khá cao có thể dẫn đến việc có nhiều trường hợp muốn nhận con nuôi nhưng không đăng ký nuôi con nuôi, làm cho quyền, lợi ích của đứa trẻ không đảm bảo. Việc đơn giản thủ tục đăng ký nuôi con nuôi trong nước là cần thiết để tạo điều kiện được chăm sóc tốt nhất.
3. Nhận con nuôi là một hành vi pháp lý nên việc nuôi con nuôi buộc phải đảm bảo các điều kiện xác lập thì mới có hiệu lực pháp luật. Nếu các bên trong quan hệ nuôi con nuôi không tuân thủ các quy định về nuôi con nuôi thì việc nuôi con nuôi bị vô hiệu. Và chế tài đối với sự vô hiệu của việc nuôi con nuôi là hủy việc nuôi con nuôi. Nhưng pháp luật hiện hành
[17] chưa có quy định điều chỉnh đối với vấn đề nuôi con nuôi vô hiệu và hệ quả của nó, ngoại trừ khoản 4, Điều 25 Luật Nuôi con nuôi quy định về việc chấm dứt việc nuôi con nuôi khi vi phạm vào các hành vi cấm. Sự phân biệt giữa huỷ việc nuôi con nuôi và chấm dứt việc nuôi con nuôi có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ, hiệu lực của hủy việc nuôi con nuôi hồi tố đến thời điểm xác lập việc nuôi con nuôi. Quan hệ nuôi con nuôi không có giá trị pháp lý ngay kể từ khi xác lập. Ngược lại, chấm dứt việc nuôi con nuôi chỉ có hiệu lực từ ngày bản án có hiệu lực và các hiệu lực của nuôi con nuôi đã phát sinh trong quá khứ không bị hủy bỏ.
4. Thủ tục hành chính: (1) Giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đối với trẻ em sống ở cơ sở nuôi dưỡng; (2) Giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đối với trường hợp cha dượng/mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng; cô, cậu, dì, chú , bác ruột nhận cháu làm con nuôi đề nghị giữ nguyên như quy định trước đây
[18] là thuộc thẩm quyền của Cục Con nuôi vì thực tế Cục cũng vẫn đang tiếp nhận hồ sơ và thu lệ phí.
5. Cục Con nuôi nghiên cứu, biên soạn những tài liệu cung cấp thông tin chính thống cũng như tập huấn cho cán bộ làm công tác hộ tịch tại các Sở Tư pháp, cán bộ chuyên trách trẻ em tại Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã nhằm nâng cao sự hiểu biết về văn hoá, pháp luật của các nước giúp cho việc đánh giá, nhận xét và thực hiện hồ sơ về nuôi con nuôi được đầy đủ và toàn diện hơn.
6. Khi địa phương có vướng mắc, gửi về Cục chuyên quản, Cục tiếp tục nghiên cứu trả lời sớm như hiện nay để địa phương có căn cứ giải quyết hồ sơ cho công dân.
7. Cần tăng cường hơn nữa việc hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra các địa phương trong việc thụ lý, giải quyết hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi nhất là nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
8. Bộ Tư pháp tích cực ký kết thêm Hiệp định tương trợ tư pháp về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài với những nước phát triển để trẻ em được nhận nuôi có điều kiện được chăm sóc, tiếp cận với nền y học hiện đại, giúp cho các trẻ có cuộc sống tốt đẹp hơn./.