1. Một số khó khăn:
- Về thể chế:
Theo quy định tại Nghị định 55/2011/NĐ-CP thì việc thành lập tổ chức pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là bắt buộc. Tuy nhiên, các văn bản QPPL quy định về cơ cấu, tổ chức bộ máy của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh (Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) không quy định có Phòng pháp chế, do đó, các địa phương gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong việc thành lập Phòng pháp chế.
Tại khoản 1 Điều 12 Nghị định 55 quy định về tiêu chuẩn người làm công tác pháp chế bắt buộc phải có trình độ cử nhân luật trở lên, việc quy định như vậy là chưa phù hợp với thực tế tại nhiều địa phương vì chỉ đáp ứng đối với một số cơ quan như Tư pháp, Thanh tra, đối với các ngành như: Kế hoạch và Đầu tư, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ... thì quy định này thiếu tính khả thi.
Tại khoản 2 Điều 12 Nghị định 55 quy định công chức pháp chế được tuyển dụng, bổ nhiệm vào tổ chức pháp chế ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi nghề. Đồng thời, Chính phủ giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp ưu đãi nghề đối với người làm công tác pháp chế. Tuy nhiên, qua 10 năm triển khai thực hiện Nghị định 55, vẫn chưa có chế độ phụ cấp ưu đãi nghề cho công chức phụ trách công tác pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh.
Hệ thống pháp luật thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, thay thế, nhiệm vụ công tác pháp chế ngày càng nhiều, trong khi cán bộ pháp chế tại các địa phương phần lớn là kiêm nhiệm và bên cạnh nhiệm vụ pháp chế còn được giao phụ trách các nhiệm vụ khác nên chất lượng tham mưu cho thủ trưởng các đơn vị trong việc thực hiện công tác pháp chế còn nhiều hạn chế.
- Trong hoạt động của các tổ chức pháp chế:
Một số Sở, ngành tại một số địa phương chưa quan tâm đúng mức với công tác pháp chế, dẫn tới sự phối hợp giữa các phòng, đơn vị với cán bộ pháp chế, phòng pháp chế trong quá trình triển khai các nghiệp vụ pháp chế vẫn chỉ mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao.
Người làm công tác pháp tại các địa phương phần lớn hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm, một số trường hợp bố trí cán bộ chưa đạt chuẩn, do đó đối với 09 nội dung công việc của công tác pháp chế được quy định tại Điều 6 Nghị định số 55/2011/NĐ-CP phần lớn đều thực hiện một cách thụ động, khi có yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên hoặc đề nghị phối hợp của Sở Tư pháp mới tiến hành thực hiện.
Công tác pháp chế là một trong những nhiệm vụ có khối lượng công việc lớn, đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, tuy nhiên hiện nay chưa có chính sách nào để thu hút nguồn nhân lực và tạo động lực cho công chức pháp chế yên tâm công tác và gắn bó với ngành.
Việc tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác pháp chế tại các sở, ngành, đơn vị chưa được các Bộ, ngành trung ương thực hiện thường xuyên.
2. Đề xuất, kiến nghị:
- Sớm sửa đổi, bổ sung, thay thế Nghị định số 55/2011/NĐ-CP theo các hướng sau:
Thứ nhất, trong bối cảnh hiện nay việc tiếp tục quy định thành lập phòng pháp chế trong cơ cấu tổ chức các cơ quan chuyên môn là khó thực hiện bởi Nghị định 107/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 24/2014/NĐ-CP tiếp tục không đề cập tổ chức này trong các cơ quan chuyên môn, vì vậy đề xuất xem xét ban hành văn bản thay thế Nghị định 55/2011/NĐ-CP theo hướng không quy định cứng các cơ quan chuyên môn (14 cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh) phải có Phòng pháp chế mà chỉ cần quy định thành lập một Phòng pháp chế duy nhất tại Văn phòng UBND tỉnh hoặc Sở Tư pháp; đối với những Sở, ban, ngành không bắt buộc thành lập Phòng pháp chế, đề nghị quy định rõ phải bố trí người chuyên trách tham mưu thực hiện công tác pháp chế. Bởi việc quy định có quá nhiều Phòng pháp chế như quy định tại Nghị định 55 sẽ kéo theo những khó khăn cần xử lý như biên chế, kinh phí thực hiện, cơ sở vật chất… và không đảm bảo tính thống nhất với quy định tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 107/2020/NĐ-CP).
Thứ hai, về nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức pháp chế, sửa đổi Điều 6 Nghị định 55/2011/NĐ-CP theo hướng không quy định quá nhiều nhiệm vụ cho tổ chức pháp chế, chỉ tập trung vào những nhiệm vụ quan trọng như xây dựng pháp luật; rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL; kiểm tra và xử lý văn bản QPPL; theo dõi tình hình thi hành pháp luật và kiểm tra việc thực hiện pháp luật; phổ biến giáo dục pháp luật. Còn các nhiệm vụ khác như: công tác bồi thường của Nhà nước, thi đua, khen thưởng… sẽ do các bộ phận khác chủ trì thực hiện, cán bộ pháp chế chỉ chịu trách nhiệm phối hợp khi cần thiết. Ngoài ra, đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ tham mưu thực hiện “theo dõi chỉ số PCI; nâng xếp hạng chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật (chỉ số B1)”.
Thứ ba, về điều kiện đảm bảo nguồn nhân lực, kinh phí thực hiện: đối với các điều kiện đảm bảo nguồn nhân lực đề nghị giữ nguyên như nội dung quy định tại Điều 11, Điều 12 Nghị định 55; về kinh phí thực hiện, đề nghị quy định cụ thể hơn.
Thứ tư, bổ sung trách nhiệm cụ thể của Bộ Nội vụ trong việc đảm bảo nguồn nhân lực, tạo điều kiện cho các địa phương kiện toàn bộ máy pháp chế theo đúng quy định của Chính phủ, giao trách nhiệm cho Bộ Tài chính quy định quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với người làm công tác pháp chế và các điều kiện cần thiết khác cho hoạt động của tổ chức pháp chế.
- Đối với các Bộ, ngành:
Thứ nhất, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp ưu đãi nghề đối với người làm công tác pháp chế theo quy định tại khoản 2, Điều 12 Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.
Thứ hai, Bộ Tư pháp xây dựng chương trình khung đào tạo pháp chế, tương tự như các chương trình đào tạo các chức danh tư pháp, có chỉ tiêu, số lượng đào tạo cán bộ pháp chế phù hợp với thực tiễn của địa phương.
Thứ ba, Bộ Tư pháp cần có hướng dẫn cụ thể về nghiệp vụ cho công chức pháp chế tại các địa phương; tăng cường tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về công tác pháp chế, nội dung tập huấn cần tập trung vào kỹ năng của từng lĩnh vực cụ thể và trao đổi kinh nghiệm trong tổ chức triển khai thực hiện công tác pháp chế.
Thứ tư, Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ có hướng dẫn cụ thể về biên chế đối với đội ngũ những người làm công tác pháp chế ở địa phương.
- Đối với các địa phương:
Thứ nhất, các địa phương cần quan tâm hơn nữa đối với công tác pháp chế, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ pháp chế thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, trong các cơ quan chuyên môn của các địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ pháp chế với các công chức làm công tác chuyên môn; giữa các cơ quan chuyên môn với Sở Tư pháp trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ của công tác pháp chế.
Thứ ba, trước thực trạng công chức pháp chế chủ yếu đều là kiêm nhiệm, đề nghị các cơ quan chuyên môn của các địa phương nghiên cứu phân công công việc cho cán bộ làm công tác pháp chế một cách hợp lý, bảo đảm cán bộ pháp chế không bị “quá tải” khi vừa phải thực hiện các nhiệm vụ của công tác pháp chế, vừa phải thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn.
Thứ tư, mỗi cán bộ pháp chế cần tích cực học tập, nghiên cứu, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ. Khi có khó khăn cần trao đổi ngay với lãnh đạo các đơn vị cũng như Sở Tư pháp nếu khó khăn đó xuất phát từ chuyên môn, nghiệp vụ./.
Trọng Đạt