Công tác hòa giải ở cơ sở tại khu vực phía Nam
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

Công tác hòa giải ở cơ sở tại khu vực phía Nam

Hòa giải ở cơ sở ngày càng khẳng định vị trí, vai trò là một cơ chế giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp rất nhân văn, kịp thời, hiệu quả, bền vững; được người dân quan tâm, sử dụng ngày càng nhiều. Nhiều tranh chấp, mâu thuẫn trong sinh hoạt, tranh chấp trong đất đai được giải quyết ngay từ cơ sở, góp phần tăng cường sự đoàn kết, gắn bó trong nhân dân. Đồng thời, thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở, nhân dân hiểu rõ hơn các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm, hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật, giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội, tạo đồng thuận trong xã hội thúc đẩy phát triển kinh tế.

        Vai trò của hòa giải ở cơ sở được nâng cao
        Hòa giải ở cơ sở có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, có thể nói đây là một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả. Bởi hòa giải thành sẽ hàn gắn và khôi phục tình cảm giữa các bên tranh chấp, giúp duy trì mối quan hệ đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng dân cư. Do đó, hòa giải ở cơ sở là chỗ dựa cho việc tổ chức một xã hội đoàn kết, hòa hợp, đồng thuận, người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, tạo tiền đề cho ổn định chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Vì lẽ đó hòa giải ở cơ sở không chỉ là phương thức giải quyết tranh chấp có hiệu quả mà còn là một phương thức phổ biến giáo dục pháp luật thiết thực, nhằm giữ gìn, duy trì đoàn kết trong nội bộ nhân dân; phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, tội phạm, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, góp phần xây dựng và nâng cao ý thức thượng tôn pháp luật trong cộng đồng dân cư; hướng tới xây dựng một xã hội đồng thuận, đoàn kết, cùng thực hiện những nhiệm vụ cách mạng do Đảng và Nhà nước đề ra.
        Sau khi Luật Hòa giải ở cơ sở có hiệu lực từ ngày 01/01/2014, các địa phương đã chủ động chỉ đạo triển khai thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở trên địa bàn. Công tác hòa giải ở cơ sở đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đáng chú ý ở những điểm sau:
        Thứ nhất, hoạt động quản lý nhà nước đối với công tác hòa giải ở cơ sở ngày càng đi vào chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm, tạo điều kiện tốt cho tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở được kiện toàn và phát triển.
        Trong việc ban hành thể chế, ngay sau khi Luật hòa giải ở cơ sở có hiệu lực thi hành, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ ban hành/phối hợp ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành, tạo cơ sở pháp lý toàn diện, đầy đủ và vững chắc cho hoạt động hòa giải đi vào nề nếp, thống nhất và hiệu quả. Căn cứ văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của cấp Trung ương, Ủy ban nhân dân các cấp đã ban hành Kế hoạch, công văn chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở phù hợp với tình hình thực tiễn tại địa phương. Đặc biệt, sau khi có Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ Hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2019 -2022”, các địa phương đã tích cực triển khai  trên địa bàn tỉnh/thành phố, từ đó công tác hòa giải ở cơ sở đã được thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn.
        Việc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải cho hòa giải viên được cơ quan tư pháp cấp tỉnh, cấp huyện chú trọng và thực hiện hằng năm. Nội dung tập huấn được lựa chọn gắn liền với nhu cầu thực tiễn tại địa phương. Phương pháp bồi dưỡng được nghiên cứu và có nhiều điểm đổi mới theo hình thức trao đổi, thảo luận 2 chiều giữa giảng viên và học viên, mang tính cầm tay chỉ việc thông qua giải quyết các tình huống giả định, qua đó các hòa giải viên có thể trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau, cùng nhau tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn hòa giải các vụ việc cụ thể.
        Thứ hai, tổ chức hòa giải ở cơ sở được kiện toàn và tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay tại Khu vực  phía Nam có 21.146 tổ hòa giải, 136.834 hòa giải viên. Các tổ hòa giải cơ bản có đầy đủ các thành phần tham gia như Ban công tác Mặt trận, Chi hội phụ nữ, Chi hội cựu chiến binh, Chi hội người cao tuổi, Đoàn thanh niên, ở vùng nông thôn có thêm Chi hội nông dân và có ít nhất 01 hòa giải viên nữ. Đối với vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sẽ có ít nhất 01 hòa giải viên là người dân tộc thiểu số. Ở tỉnh Sóc Trăng, còn hướng dẫn khuyến khích các địa phương cơ cấu Trưởng ban nhân dân khóm, ấp tham gia làm hòa giải viên.
        Thứ ba, hoạt động hòa giải ở cơ sở ngày càng được nâng cao, khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò của tổ hòa giải trong đời sống xã hội. Tỷ lệ hòa giải thành ở cơ sở cao trong những năm gần đây đã làm cho tổ hòa giải trở thành nơi nhận được nhiều sự tin tưởng của người dân tìm đến trong những vụ việc xích mích, mâu thuẫn, tranh chấp, đây là dấu hiệu đáng mừng từ hoạt động hòa giải cơ sở đã tạo ra sức lan tỏa lớn trong cộng đồng dân cư. Bên cạnh đó còn góp phần nâng cao hiệu quả cho công tác tuyên truyền PBGDPL đến với người dân tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và chấp hành pháp luật trong nhân dân.
        Trong 6 tháng đầu năm 2022, hòa giải viên Khu vực đã hòa giải thành 18.359/ 22.761 vụ, đạt 80,8%. Trong đó có một số địa phương có tỷ lệ hòa giải thành cao như: Vĩnh Long (94,83%), Bình Dương (93,7%), Bến Tre (92,2%), Long An (91,2%). Tỉnh Đồng Tháp đã xuất hiện mô hình Câu lạc bộ hòa giải với tỷ lệ hòa giải thành đạt từ trên 92% đến 100%, được xây dựng đầu tiên ở xã Vĩnh Thạnh (huyện Lấp Vò), xã Thường Phước 1 (huyện Hồng Ngự), phường An Hòa (TP.Sa Đéc) sau đó, mô hình này đã được nhân rộng trong toàn tỉnh.Cà  Mau thực hiện mô hình «Tổ hòa giải ở cơ sở 5 tốt» gắn với xây dựng nông thôn mới.
 
 


        Khó khăn:
        Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ như trên, công tác hòa giải ở cơ sở vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như sau:
        Thứ nhất, đội ngũ hòa giải viên tuy đông về số lượng nhưng trình độ học vấn và trình độ hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế. Phần lớn trong số họ thiếu kỹ năng hòa giải, trình độ hiểu biết về chính sách, pháp luật còn hạn chế, thường lúng túng trong quá trình hòa giải các vụ việc phức tạp.
        Thứ hai, ở một số nơi, hoạt động hòa giải vẫn còn mang tính hình thức, chiếu lệ, thụ động. Nhiều mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật thuộc phạm vi hòa giải không được hòa giải viên chủ động hòa giải trở nên nghiêm trọng, gay gắt, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của các bên, gây mất trật tự công cộng...,từ tranh chấp dân sự chuyển thành vi phạm pháp luật, phạm tội hình sự.
        Thứ ba, một số quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa thực sự phù hợp, khó thực hiện (như quy định về bầu hòa giải viên, quy định về ngân sách Trung ương hỗ trợ cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách) hay chưa có cơ chế, chính sách tốt để huy động người dân, nhất là những người có uy tín, trình độ, am hiểu kiến thức pháp luật tham gia hòa giải...
        Thứ tư, một số địa phương chưa thường xuyên quan tâm đến hoạt động của công tác hòa giải ở cơ sở, có một số nơi xem hoạt động hòa giải là hoạt động của chính quyền, dẫn đến công tác hòa giải ở cơ sở chưa thực hiện đúng bản chất là một tổ chức của quần chúng, tổ chức tự quản của Nhân dân, nên chưa phát huy mạnh mẽ vai trò của các Tổ hòa giải ở cơ sở.
        Thứ năm, kinh phí dành cho công tác này còn gặp nhiều khó khăn, nhất là các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách. Kinh phí hỗ trợ cho hòa giải do các tỉnh tự cân đối bố trí còn hạn chế, các tỉnh, thành phố đã chi thì phạm vi thực hiện chưa đều khắp. Việc huy động các nguồn lực khác ngoài kinh phí ngân sách nhà nước để thực hiện còn chưa được chú trọng.
        Một số giải pháp, kiến nghị
        Thứ nhất, tranh thủ sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp. Trước hết, đó là sự ủng hộ về tinh thần, về định hướng chỉ đạo, thể hiện bằng việc việc ban hành các văn bản hướng dẫn, giao trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, tổ chức kiểm tra đôn đôc thường xuyên. Bên cạnh đó còn là sự đầu tư về kinh phí, cơ sở vật chất và tạo nhiều điều kiện thuận lợi khác.
        Thứ hai, tổ chức thực hiện có hiệu quả Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2019-2022”. Thường xuyên củng cố, kiện toàn đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở; hàng năm tổ chức sơ kết, tổng kết, khen thưởng, nêu gương những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác hòa giải tại địa phương; tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác hòa giải ở cơ sở.
        Thứ ba, thực hiện tốt cơ chế phối hợp quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở theo hướng dẫn tại Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN; đẩy mạnh lồng ghép việc thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở với các phong trào, cuộc vận động do Mặt trận phát động; kết hợp chặt chẽ công tác hòa giải ở cơ sở với hoàn thiện quy chế dân chủ ở cơ sở; gắn hoạt động hòa giải ở cơ sở với phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động nhân dân chấp hành pháp luật, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
         Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện thể chế về hòa giải ở cơ sở, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Hòa giải ở cơ sở nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho công tác hòa giải ở cơ sở, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thi hành Luật. Cụ thể một số nội dung sau:
        - Thống nhất một mẫu biên bản hòa giải dùng chung khi hòa giải viên lập được áp dụng kể cả khi các bên tranh chấp khi yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở; đồng thời đề xuất trường hợp các bên tranh chấp yêu cầu Tòa án công Bộ Tư pháp nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở đối với những vụ việc không có giá trị về vật chất hoặc giá trị thấp thì được miễn lệ phí (Bình Dương)
        - Quy định cụ thể thời hạn khi tiếp nhận vụ, việc đến khi phân công hòa giải viên tiến hành hòa giải; quy định cụ thể thời hạn tiến hành hòa giải đối với từng vụ, việc. Đồng thời, ban hành các quy định mang tính ràng buộc, bắt buộc thực hiện những cam kết, thỏa thuận khi hòa giải thành.
        - Sửa đổi, bổ sung quy định trong Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 thống nhất với quy định trong Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 cụ thể như sau: Bổ sung khoản 6 Điều 10 Luật Hòa giải ở cơ sở: “Cung cấp tài liệu làm cơ sở cho việc xét đơn yêu cầu của đương sự khi Tòa án yêu cầu” và bổ sung khoản 3 Điều 25 Luật Hòa giải ở cơ sở: “Một trong các bên có quyền yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành. Trình tự, thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành được thực hiện theo quy định pháp luật về tố tụng dân sự ”.
        - Sửa đổi khoản 2 Điều 7 Luật hòa giải ở cơ sở, quy định: một trong các điều kiện cần và đủ để được bầu làm hòa giải viên là “có hiểu biết pháp luật”.
        - Xem xét chỉnh sửa Điều 12, Điều 13 (quy trình bầu tổ trưởng tổ hòa giải và hòa giải viên) của Nghị quyết liên  tịch số 01/2014/NQLT/UBMTTQVN-CP ngày 18/11/2014 theo hướng đơn giản, tạo điều kiện thuận lợi cho địa phương triển khai thực hiện; xem xét bổ sung quy định: Tổ trưởng tổ hòa giải phải là Trưởng ban công tác mặt trận để tạo sự thống nhất trong thực hiện.
        - Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Tài chính sớm tham mưu bố trí kinh phí công tác hoà giải ở cơ sở cho các địa phương chưa tự chủ về kinh phí theo quy định Điều 6 Luật Hòa giải ở cơ sở và Nghị định 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 của Chính phủ. Đồng thời, sửa đổi Thông tư số 100/2014/TT-BTC-BTP ngày 30/7/2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở theo hướng tăng kinh phí hỗ trợ cho tổ hòa giải và hòa giải viên để khuyến khích những người có uy tín, có kiến thức pháp luật tại địa phương tham gia làm hòa giải viên và đảm bảo đáp ứng đủ kinh phí cho các tổ hòa giải trong quá trình hoạt động./.
Hà My