Nghị định 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ ra đời nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch, lành mạnh hóa quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Nghị định cũng đã quy định khá cụ thể về hồ sơ, trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết các việc hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; quy định chi tiết về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm hỗ trợ kết hôn; trách nhiệm quản lý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền....
Để giải quyết những vấn đề chưa thể quy định chi tiết trong Nghị định và một số nội dung của Nghị định chưa được hiểu rõ ràng, khó khăn trong việc áp dụng, ngày 31/12/2013, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 22/2013/TT-BTP.
Tại Khoản 2 Điều 7 Thông tư 22/2013/TT-BTP quy định: “2. Khi phỏng vấn, cán bộ Sở Tư pháp cần làm rõ sự tự nguyện, mục đích kết hôn của cả hai bên; sự hiểu biết của mỗi bên về hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh cá nhân của nhau, về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hoá pháp luật về hôn nhân và gia đình của quốc gia, vùng lãnh thổ mà bên kia cư trú”. Ngoài ra, tại Điểm b Khoản 4 Điều 6 Thông tư cũng nêu rõ: “Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, nếu đương sự thuộc một trong các trường hợp sau thì phải đến Trung tâm để được tư vấn, hỗ trợ: … - Hai bên chưa hiểu biết về hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh cá nhân của nhau; không hiểu biết về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hóa, pháp luật về hôn nhân và gia đình của mỗi nước”.
Thực tiễn cho thấy, trong tình hình hội nhập như hiện nay, công dân Việt Nam đăng ký kết hôn với công dân rất nhiều nước trên thế giới , nội dung phỏng vấn khá nhiều đòi hỏi cán bộ Sở Tư pháp hoặc Trung tâm tư vấn phải hiểu biết phong tục, tập quán, văn hóa, pháp luật về hôn nhân và gia đình của các nước là điều không thể.
Bên cạnh đó, các Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đang trong giai đoạn chuyển đổi từ mô hình Trung tâm hỗ trợ kết hôn thuộc Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh, thành phố và chưa có chuyên gia tư vấn chuyên trách hay cộng tác viên là chuyên gia thuộc lĩnh vực ngôn ngữ, văn hoá – xã hội, pháp luật để thực hiện hoạt động tư vấn hỗ trợ.
Trao đổi với chúng tôi, bà Nguyễn Thị Phương Thu - Trưởng phòng Hành chính Tư pháp Sở Tư pháp Cần Thơ - cho biết: “Hiện nay, Bộ Tư pháp chưa có hướng dẫn cụ thể về tiêu chí để đánh giá thế nào là có hiểu biết về văn hoá, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, pháp luật về hôn nhân và gia đình”.
Qua theo dõi sơ bộ, đây là khó khăn chung mà hầu hết các địa phương trong Khu vực đều vướng phải và cán bộ hộ tịch tại các Sở Tư pháp phải tự tìm hiểu qua nhiều kênh thông tin khác nhau, cũng như chưa thể kiểm chứng tính chính xác của cac thông tin được thu thập.
Để khắc phục tình trạng này, thiết nghĩ Bộ Tư pháp cần cung cấp tài liệu, thông tin chính thống cũng như tập huấn cho cán bộ làm công tác hộ tịch tại các Sở Tư pháp, chuyên gia tư vấn tại các Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm nâng cao sự hiểu biết về văn hoá, pháp luật của các nước trên thế giới giúp cho việc đánh giá, nhận xét về sự hiểu biết của các bên được đầy đủ và toàn diện hơn, đảm bảo việc thực hiện thống nhất./.