Chỉ Giấy chứng minh nhân dân và Hộ chiếu là giấy tờ tuỳ thân trong chứng thực
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

Chỉ Giấy chứng minh nhân dân và Hộ chiếu là giấy tờ tuỳ thân trong chứng thực

Cùng với xu thế cải cách hành chính chung của cả nước, việc chứng thực trong thời gian qua đã tạo rất nhiều thuận lợi cho người dân khi có nhu cầu giao dịch dân sự. Hồ sơ yêu cầu chứng thực của người dân được giải quyết nhanh chóng, tận tình và có tính chuyên môn cao.

Tuy nhiên, khi áp dụng quy định về hồ sơ yêu cầu chứng thực chữ ký, chứng thực hợp đồng, giao dịch đã gặp những khó khăn do quy định chưa có cách hiểu rõ ràng, thống nhất về giấy tờ tuỳ thân của người yêu cầu chứng thực. Tại Khoản 1 Điều 41 Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 quy định người yêu cầu chứng thực hợp đồng phải xuất trình giấy tờ tuỳ thân và giấy tờ cần thiết để thực hiện việc chứng thực. Điểm a Khoản 1 Điều 17 Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 cũng quy định cá nhân yêu cầu chứng thực chữ ký phải xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc giấy tờ tuỳ thân khác.

Giấy tờ tuỳ thân được hiểu là những giấy tờ có thể giúp xác định được đặc điểm nhận dạng riêng và nhân thân của một người. Nghị định 05/1999/NĐ-CP ngày 03/02/1999 của Chính phủ quy định Chứng minh nhân dân được quy định là một loại giấy tờ tuỳ thân của công dân. Nghị định 136/2007/NĐ-CP về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam quy định Hộ chiếu được sử dụng thay thế Giấy chứng minh nhân dân. Ngoài ra, Nghị định số 130/2008/NĐ-CP ngày 19/12/2008 thì Giấy chứng minh sĩ quan quân đội có thể được sử dụng để thực hiện các giao dịch dân sự nhưng cũng không quy định đây là giấy tờ tuỳ thân của sĩ quan quân đội.

Đến nay, chưa có văn bản pháp lý nào quy định giấy tờ tuỳ thân gồm những loại giấy tờ gì, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hết hạn có được sử dụng để thực hiện việc chứng thực hay không. Chính vì quy định chưa rõ ràng về giấy tờ tuỳ thân, dẫn đến việc áp dụng không thống nhất ở các địa phương. Có những nơi cho rằng Chứng minh sĩ quan quân đội, Chứng minh công an, Giấy chứng nhận công nhân viên quốc phòng, Giấy kiểm tra tạm thời (do cơ quan Công an cấp huyện cấp – trên đó có dấu vân tay của người được cấp giấy), các loại thẻ do các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, cơ quan Nhà nước cấp như thẻ Đảng viên, thẻ nhà báo cũng là giấy tờ tuỳ thân nên chấp nhận chứng thực, có những nơi từ chối vì cho rằng đó không phải giấy tờ tuỳ thân nên đã gây tâm lý hoài nghi, cảm giác bị làm khó dễ cho người dân.

Nghị định 23/2014/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/4/2014 đã quy định cụ thể việc người yêu cầu chứng thực chữ ký phải xuất trình Bản chính hoặc bản sao có chứng thực Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu còn giá trị sử dụng”; nếu có yêu cầu chứng thực hợp đồng, giao dịch thì nộp một bộ hồ sơ yêu cầu chứng thực trong đó có “Bản sao Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu còn giá trị sử dụng của người yêu cầu chứng thực”“xuất trình kèm bản chính để đối chiếu”. Như vậy, theo quy định, sắp tới người yêu cầu chứng thực chỉ xuất trình Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu còn giá trị sử dụng để làm căn cứ chứng minh mình là người ký vào những văn bản, giấy tờ yêu cầu cơ quan nhà nước chứng thực. Ngoài hai loại giấy tờ trên, các Giấy chứng minh khác hoặc thẻ ngành … không còn được sử dụng trong chứng thực nữa.

Việc quy định rõ ràng tại văn bản pháp luật chắc chắn sẽ tạo sự thống nhất cho các địa phương trong việc thực hiện chứng thực một cách chuyên nghiệp và chính xác trong thời gian tới.