Chính phủ đã ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký quản lý hộ tịch để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong từng thời kỳ[i] nhưng trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách hành chính của nước ta hiện nay, việc pháp điển hóa, hệ thống hóa thống nhất thành Luật hộ tịch là một yêu cầu thiết yếu, tạo bước đột phá cho công tác đăng ký, quản lý hộ tịch và quản lý dân cư. Đây là lần đầu tiên nước ta có văn bản ở tầm Luật điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch, sau hơn nửa thế kỷ[ii] điều chỉnh bằng các Nghị định của Chính phủ.
Việc triển khai Luật Hộ tịch đến cơ sở được quy định tại Mục 1 Chương VI của Luật Hộ tịch và Quyết định số 59/QĐ-TTg ngày 15/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Hộ tịch. Theo đó Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch, tổ chức triển khai pháp luật về hộ tịch.
Hộ tịch là những sự kiện liên quan trực tiếp đến nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết đi và được quy định tại pháp luật về hộ tịch.
Trong những năm qua, công tác hộ tịch đã có những bước phát triển ổn định, đạt được những kết quả quan trọng, công tác xây dựng thể chế, việc phổ biến giáo dục pháp luật về hộ tịch ngày được tăng cường; hệ thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch, đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch từ Trung ương đến cơ sở không ngừng được củng cố, kiện toàn; việc triển khai và ứng dụng pháp luật về hộ tịch tại các địa phương được thực hiện ngày càng đi vào nề nếp, đã giải quyết được khối lượng hồ sơ đăng ký hộ tịch ngày càng lớn của người dân...Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, việc hội nhập quốc tế sâu rộng cùng với việc dịch chuyển dân cư trong nước và quốc tế ngày càng gia tăng, thì công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, thậm chí yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc triển khai pháp luật về hộ tịch chưa được chú trọng đúng mức, cụ thể:
Một là, văn bản hướng dẫn liên quan đến lĩnh vực hộ tịch rất nhiều, phạm vi điều chỉnh rộng, biểu mẫu hộ tịch lại thay đổi thường xuyên dẫn đến khó triển khai hoặc nhầm lẫn khi áp dụng. (Đơn cử như biểu mẫu hộ tịch được áp dụng trong hồ sơ nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài thực hiện tại Sở Tư pháp).
Hai là, việc triển khai, hướng dẫn áp dụng pháp luật về hộ tịch tại các địa phương mặc dù được quan tâm nhưng chưa được thực hiện đều đặn hàng năm, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nội dung bồi dưỡng thường kết hợp nhiều lĩnh vực công tác khác của cấp xã và còn mang tính lý thuyết, chưa đi vào thực tế tại địa phương. Bên cạnh đó, suốt một thời gian dài từ năm 1998[1] đến nay, Phòng Tư pháp cấp huyện không trực tiếp đăng ký hộ tịch mà chỉ còn thực hiện nhiệm vụ giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch. Do vậy, cần phải có kế hoạch, chương trình tập huấn bài bản, chuyên sâu hơn nữa để cán bộ làm công tác hộ tịch có thể nắm bắt được và áp dụng vào thực tế tại địa phương.
Ba là, công chức làm hộ tịch cũng thường xuyên có biến động. Nhiều công chức tư pháp – hộ tịch có trình độ, kinh nghiệm, được bố trí vào những vị trí lãnh đạo, chủ chốt của Uỷ ban nhân dân hoặc các vị trí khác đồng thời điều chuyển những cán bộ khác của Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc tiếp nhận người mới vào nhiệm vụ Tư pháp – Hộ tịch cấp xã. Việc bố trí cán bộ Tư pháp – Hộ tịch cấp xã vào những vị trí cao hơn tại cơ sở thể hiện sự ghi nhận và đánh giá cao kết quả, sức đóng góp của cán bộ tư pháp cho địa phương nhưng cũng đòi hỏi cần phải bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên cho đội ngũ cán bộ mới được tiếp nhận công tác hộ tịch cả về kỹ năng lẫn kiến thực chuyên môn.
Bốn là, việc tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật về hộ tịch đến người dân tuy đã được thực hiện khá tốt ở địa phương nhưng cũng còn một số hạn chế, cũng vẫn còn một số người dân chưa nhận biết được quyền của mình trong vấn đề hộ tịch, chỉ đến khi có con đi học hoặc phát sinh những việc khác đòi hỏi phải có giấy tờ hộ tịch mới đi đăng ký và phải chứng minh các sự kiện hộ tịch là có thật....
2. Một số giải pháp để nâng cao chất lượng triển khai Luật Hộ tịch
Ngày 15/01/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 59/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Hộ tịch, trong đó đề ra các nội dung triển khai Luật Hộ tịch trên cả nước.
Thứ nhất, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết các nội dung được giao trong Luật. Trong thời gian từ nay đến tháng 10 năm 2015, sẽ hoàn thành việc xây dựng 3 Nghị định và 3 Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch để khi Luật Hộ tịch có hiệu lực thi hành (01/01/2016) là có thể áp dụng được ngay. Văn bản quy phạm phải có tính ổn định, hạn chế thay đổi nhiều, nếu có thay đổi thì phải thống kê những danh mục, nội dung còn hiệu lực và những những danh mục, nội dung được thay thế để thuận tiện cho việc áp dụng pháp luật vào thực tế. Đồng thời việc ban hành văn bản phải đảm bảo tiến độ, tránh để chậm trễ hoặc khi Luật có hiệu lực thi hành rồi mà văn bản hướng dẫn vẫn chưa được ban hành.
Thứ hai, tổ chức quán triệt thực hiện và tuyên truyền, phổ biến Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các hình thức, biện pháp tuyên truyền được vận dụng linh hoạt, sáng tạo, chú trọng ứng dụng công nghệ hiện đại, sáng kiến hình thức tuyên truyền mới phù hợp. Tiếp tục sử dụng các hình thức tuyên truyền truyền thống như tuyên truyền miệng, tuyên truyền thông qua phương tiện thông tin đại chúng, thông qua tài liệu tuyên truyền (Đề cương giới thiệu, phổ biến các văn bản luật, pháp lệnh; Sách hỏi - đáp pháp luật; Tờ rơi, tờ gấp pháp luật; Đặc san tuyên truyền pháp luật; Các loại băng tiếng, băng hình với các nội dung pháp luật đơn giản, ngắn gọn và các cuộc nói chuyện về pháp luật …) và khéo léo kết hợp với các hình thức tuyên truyền khác như các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, các hình thức thi sân khấu hoá, lồng ghép trong các cuộc giao lưu văn hoá, văn nghệ, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý ...
Hệ thống đài phát thanh hầu hết các huyện, xã đều có chương trình, chuyên mục phát thanh 39 pháp luật. Gần 100% xã, phường, thị trấn trong cả nước đã có hệ thống loa truyền thanh cơ sở và việc tuyên truyền qua hệ thống loa phát thanh thực sự có hiệu quả ở những vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Bên cạnh đó, các hội thi "Nông dân và pháp luật", "Chủ tịch xã giỏi", "Hoà giải viên giỏi", "Nông dân lái xe an toàn", "Tuyên truyền viên pháp luật giỏi", "Công chức Tư pháp-Hộ tịch giỏi", "Nhà nông đua tài"... cũng đã được nhân rộng trên cả nước cùng với trên 90% cơ quan, đơn vị tại sở, ban, ngành cấp tỉnh, huyện có tủ sách pháp luật và sự hoạt động có hiệu quả của các câu lạc bộ pháp luật, trợ giúp pháp lý. Với nhiều hình thức tuyên truyền phong phú như trên, các địa phương có thể áp dụng nhiều hình thức để triển khai, phở biến Luật Hộ tịch đến tận cơ sở, đáp ứng như cầu thiết yếu của cuộc sống dân cư.
Thứ ba, việc xây dựng và ứng dụng Đề án Cơ sở dũ liệu hộ tịch toàn quốc. Theo Quyết định 59/QĐ-TTg ngày 15/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ, phần mềm đăng ký và quản lý hộ tịch, cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc sẽ được hoàn thành và đưa vào sử dụng trước ngày 30/6/2019.
Trong suốt một thời gian ở nước ta việc quản lý sổ sách hộ tịch chủ yếu bằng phương pháp thủ công và đã gặp nhiều bất cập như bị mờ chữ, mối mọt hoặc cháy hỏng. Thậm chí ở một số địa phương khi xảy ra thiên tai lũ lụt, sổ hộ tịch còn bị thất lạc. Do đó, Cơ sở dữ liệu điện tử sẽ tạo nhiều thuận lợi cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, việc thống kê, tra cứu hộ tịch được thực hiện một cách nhanh chóng kịp thời, phục vụ đắc lực cho việc xây dựng, hoạch định chính sách, phát triển kinh tế - xã hội cũng như phúc đáp yêu cầu của người dân.
Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các địa phương đã tự xây dựng được sơ sở dữ liệu hộ tịch và trang bị máy tính cho cơ sở từ nhiều năm nay (TP. Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Đà Nẵng …). Do vậy, khi xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch chung toàn quốc, kiến nghị Bộ Tư pháp và các Bộ ngành liên quan xem xét đến khả năng tích hợp dữ liệu cũ mà các địa phương đã nhập trong nhiều năm qua để tránh lãng phí nhân công nhập liệu cũng như không gây nhầm lẫn. Bên cạnh đó, cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử cần phải có bảo mật phần cứng, bảo mật đường truyền và có mật khẩu, tài khoản cho công chức có nhiệm vụ quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu.
Thứ tư, Rà soát, đào tạo bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ hộ tịch cho công chức làm công tác hộ tịch cấp huyện và cấp xã. Theo Quyết định 59/QĐ-TTg, trước ngày 31/12/2019, bảo đảm 100% công chức làm công tác hộ tịch phải đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định của Luật Hộ tịch và từ năm 2016, Uỷ ban nhân dân chỉ tuyển dụng mới những người đủ tiêu chuẩn, bố trí làm công tác hộ tịch. Để đáp ứng được yêu cầu trong việc thực hiện Luật Hộ tịch, ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn hiện nay là bồi dưỡng nghiệp vụ, tập huấn kỹ năng hộ tịch cho công chức làm công tác hộ tịch và đặc biệt chú trọng đến những đặc thù tại địa phương. Việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài được chuyên về cho Uỷ ban nhând ân cấp huyện cũng đòi hỏi công chức hộ tịch cấp huyện có trình độ ngoại ngữ nhất định, tin học để đáp ứng được yêu cầu công việc.
Do vậy, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cho công chức hộ tịch, không chỉ đáp ứng được yêu cầu trước mắt mà còn đáp ứng lâu dài cho việc tin học hoá, sử dụng khai thác phần mềm về quản lý hộ tịch trong thời gian tới./.
[1] Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch không quy định việc đăng ký hộ tịch quá hạn thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện như trước đây nữa.
[i] Tính đến nay đã có 8 Nghị định của Chính phủ điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch, bao gồm cả hộ tịch trong nước và có yếu tố nước ngoài.
[ii] Ngày 08/5/1956, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 764/TTg kèm theo Bản Điều lệ hộ tịch; ngày 16/01/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 04/CP, kèm theo Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch mới thay thế (còn gọi là Điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1961) – là những văn bản đầu tiên, được thực hiện cho đến năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch và các Nghị định tiếp theo là Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch; Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực; Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.