Hiện nay có 06/25[1] tỉnh trong Khu vực đã ban hành Quy chế phối hợp trong công tác theo dõi thi hành pháp luật; có 16/25[2] tỉnh trong Khu vực thành lập được Phòng Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật theo trên cơ sở Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp ban hành theo đúng tinh thần Thông tư liên tịch 23/2014/TTLT-BTP-BNV. Điều này đã nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị liên quan trong việc đánh giá thực trạng thi hành pháp luật và có những giải pháp nâng cao, hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật tại địa phương. Tuy nhiên, cũng cần nhận diện những khó khăn trong công tác theo dõi thi hành pháp luật để từng bước tháo gỡ, đưa công tác này ngày càng hiệu quả.
Thể chế chưa hoàn thiện
Hệ thống văn bản quy định thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật cao nhất chỉ là Nghị định số 59/2012/NĐ-CP và Thông tư số 14/2014/TT-BTP, chưa có luật riêng quy định về thực hiện công tác TDTHPL. Hệ thống pháp luật quy định về kinh phí cho hoạt động theo dõi thi hành pháp luật nằm rải rác ở các thông tư của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, và liên tịch giữa các Bộ chuyên ngành với nhau, trùng lặp, chồng chéo, mẫu thuẫn với nhau là điều không thể tránh khỏi, gây nhiều khó khăn cho việc xây dựng kinh phí, thực hiện thanh quyết toán kinh phí đối với hoạt động theo dõi thi hành pháp luật. Bên cạnh đó, nội dung theo dõi thi hành pháp luật quy định tại Nghị định số 59/2012/NĐ-CP và hướng dẫn tại Thông tư số 14/2014/TT-BTP còn chung chung và chỉ mang tính khái niệm, việc hiểu và áp dụng vào thực tế còn chưa được thống nhất. Về đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật, mặc dù Thông tư 14/2014/TT-BTP đưa ra các tiêu chí để xem xét, đánh giá tình hình tuân thủ pháp luật nhưng cụ thể tỷ lệ bao nhiêu phần trăm (%) là đạt hay không đạt mức độ tuân thủ pháp luật thì chưa có văn bản nào quy định. Ngoài ra, chưa có cơ chế quy định chế tài xử lý đối với các trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định về theo dõi thi hành pháp luật.
Tổ chức thực hiện còn nhiều vướng mắc
Công tác theo dõi thi hành pháp luật là công tác mới, nội dung, yêu cầu theo dõi rộng và phức tạp. Vì vậy nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác theo dõi thi hành pháp luật nhiều nơi vẫn chưa được đầy đủ và quan tâm đúng mức, hoạt động phối hợp giữa các ngành, các cấp trong công tác theo dõi thi hành pháp luật vẫn chưa chặt chẽ. Các hình thức theo dõi thi hành pháp luật còn đơn điệu, chủ yếu thông qua các hoạt động kiểm tra và thu thập thông tin từ báo cáo của các cơ quan, đơn vị. Việc tổ chức điều tra, khảo sát, thu thập và xử lý thông tin về tình hình thi hành pháp luật từ các phương tiện truyền thông đại chúng chưa thường xuyên, chậm được thực hiện, hoặc nếu được triển khai thực hiện thì chủ yếu là tiếp nhận và kiến nghị xử lý.
Các điều kiện về nhân sự, phương tiện, công nghệ thông tin, trang thiết bị… đặc biệt quan trọng cho việc đảm bảo thi hành pháp luật hiện nay còn hạn chế, chưa đồng bộ, chưa huy động được các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước tham gia hỗ trợ. Đội ngũ công chức làm công tác theo dõi thi hành pháp luật tại UBND cấp huyện, cấp xã còn kiêm nhiệm, trình độ chuyên môn chưa đồng đều, thiếu kinh nghiệm. Hiện nay chưa có nguồn kinh phí riêng chi cho hoạt động theo dõi thi hành pháp luật, mọi hoạt động chủ yếu vẫn dựa vào nguồn kinh phí chung của các đơn vị. Mặt khác, công việc của theo dõi thi hành pháp luật còn chưa rõ ràng, cụ thể nên khi lập kế hoạch xin kinh phí hoạt động trong năm, cơ quan tài chính thường không cấp hoặc cấp tượng trưng.
Ngoài ra, về việc xử lý kết quả theo dõi thi hành pháp luật: tại Điều 14 NGhị định số 59 chỉ quy định việc kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý kết quả theo dõi khi phát hiện có sai sót nhưng lại không quy định cơ chế cho việc này dẫn đến tình trạng cơ quan, người có thẩm quyền khi nhận được kiến nghị thì không xử lý hoặc xử lý không đúng theo quy định của pháp luật.
Kiến nghị
Thứ nhất: Cần đảm bảo đủ nguồn lực về điều kiện cơ sở vật chất, nhân lực cho công tác theo dõi thi hành pháp luật, đặc biệt là kinh phí cho hoạt động theo dõi thi hành pháp luật như: công tác kiểm tra, điều tra, khảo sát, thống kê… Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ làm công tác theo dõi thi hành pháp luật.
Thứ hai: Thường xuyên rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật để kiến nghị điều chỉnh hoặc bãi bỏ các văn bản không còn phù hợp, chồng chéo. Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2012/NĐ-CP theo hướng quy định cụ thể về xử lý kết quả theo dõi thi hành pháp luật; các điều kiện, thủ tục, chế độ để trở thành cộng tác viên theo dõi thi hành pháp luật; về cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật; cơ chế huy động sự tham gia của các tổ chức nghề nghiệp (Hội Luật gia, Đoàn luật sư..) và các tổ chức phi Chính phủ thực hiện độc lập, cung cấp thông tin về thi hành pháp luật.
Thứ ba: Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả phối hợp giữa các Bộ, ngành Trung ương và địa phương trong công tác theo dõi thi hành pháp luật; thường xuyên kiểm tra tình hình thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật ở địa phương nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn.
Thứ tư: Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thường xuyên và kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản nghiệp vụ chuyên ngành đến toàn thể cán bộ, công chức; nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân.
Thiết nghĩ, nếu thực hiện một cách đồng bộ, kịp thời các kiến nghị trên, công tác theo dõi thi hành pháp luật sẽ được cải thiện đáng kể, ngày càng đi vào chiều sâu, đảm bảo pháp luật được thực thi đầy đủ và đi vào cuộc sống.
Phạm Thị Hà My