Điểm mới căn bản của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đối với những văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành
Về hình thức văn bản quy phạm pháp luật
Theo quy định tại điều 3 của Luật, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật gồm 26 hình thức do 18 chủ thể có thẩm quyền ban hành như: Hiến pháp; Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;… So với Luật năm 2008 và Luật năm 2004 thì Luật đã bỏ 05 loại văn bản quy phạm pháp luật, gồm: (1) Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội (trừ nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam); (2) Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; (3) Chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; (4) Chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp huyện; (5) Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Tuy nhiên, để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật đã bổ sung hình thức văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Luật năm 2015 đã phân định rõ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp tỉnh gồm: Quy định chi tiết những vấn đề được giao; tổ chức, bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định những vấn đề cụ thể tại địa phương. Nội dung nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được quy định cụ thể tại Điều 27 và Điều 28 của Luật năm 2015. Ngoài ra, Luật cũng giới hạn nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp huyện, Hội đồng nhân dân cấp xã (Điều 30) và Điều 28 của Luật năm 2015.
Luật năm 2015 đã bổ sung 01 điều (Điều 7) về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tham gia vào quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ khâu lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chủ trì, tham gia soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, chỉnh lý, trình dự án, dự thảo đến ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong trường hợp dự thảo văn bản không bảo đảm về chất lượng, chậm tiến độ, không bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm định, cơ quan trình, cơ quan thẩm tra và cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải chịu trách nhiệm về việc không hoàn thành nhiệm vụ và tùy theo mức độ mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Về các hành vi bị nghiêm cấm trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Ngoài việc quy định cấm ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, trái với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên, ban hành văn bản không thuộc hệ thống VBQPPL nhưng có chứa quy phạm pháp luật, ban hành văn bản quy phạm pháp luật không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục, Luật năm 2015 còn bổ sung quy định cấm rất mới, đó là cấm quy định thủ tục hành chính trong văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, trừ trường hợp được giao trong luật.
Về quy trình xây dựng chính sách
Luật năm 2008 và Luật năm 2004 quy định về quy trình xây dựng văn bản, từ đề xuất sáng kiến, soạn thảo, xem xét cho đến ban hành và công bố văn bản quy phạm pháp luật, nhưng chưa tách bạch giữa quy trình xây dựng chính sách và quy trình soạn thảo văn bản. Do vậy, Luật năm 2015 bổ sung quy trình hoạch định, phân tích chính sách trước khi soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật theo hướng tách bạch với quy trình soạn thảo văn bản. Quy trình xây dựng chính sách được áp dụng đối với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Một số khó khăn, thách thức đặt ra trong quá trình triển khai thi hành
Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng đã chủ động xây dựng, tham mưu Ủy ban nhân dân ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật năm 2015. Tuy nhiên, Luật năm 2015 có rất nhiều điểm mới, nên một số địa phương khi triển khai cũng còn gặp khó khăn, nhất là trong công tác tổ chức phổ biến những quy định mới của Luật khi chưa có Nghị định hướng dẫn và các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ. Một số địa phương băn khoăn trong điều kiện biên chế và kinh phí như hiện nay thì việc thực hiện các quy định có tính đột phá của Luật chắc chắn sẽ gặp khó khăn, chẳng hạn như yêu cầu phải phân tích, xây dựng nội dung chính sách, thực hiện đánh giá tác động chính sách trước khi soạn thảo dự án, dự thảo văn bản; trách nhiệm của Sở Tư pháp trong việc thẩm định chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; bảo đảm nguồn lực xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong đó có nội dung bảo đảm kinh phí cho công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm: hoạt động xây dựng chính sách, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Một số định hướng để triển khai tốt Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại địa phương
Để áp dụng tốt Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật khi có hiệu lực, các địa phương cần triển khai một các có kế hoạch, đồng bộ một số công việc trọng tâm sau:
1. Thực hiện tốt công tác quán triệt, phổ biến, tập huấn chuyên sâu về Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, đặc biệt là cho cán bộ làm công tác pháp chế, xây dựng pháp luật của các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, các cơ quan liên quan: Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh, Hội phụ nữ tỉnh, Liên đoàn lao động tỉnh; đội ngũ làm công tác xây dựng pháp luật, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Phòng Tư pháp các huyện, thành phố và cả cấp xã.
2. Tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên ban đến Luật, đề xuất sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật.Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố chỉ đạo rà soát các quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân các cấp đã ban hành để bãi bỏ, thay thế bằng các văn bản phù hợp; rà soát các quy định thủ tục hành chính đã được ban hành trong các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp để có lộ trình bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc đề nghị các cơ quan có thẩm quyền bãi bỏ phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
3. Nâng cao công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản: Sở Tư pháp chủ trì công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là công tác xây dựng chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân và chịu trách nhiệm về chất lượng, thời gian trình đề nghị, dự thảo văn bản thuộc trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Cần nâng cao công tác góp ý, thẩm định, kiểm tra văn bản, nhằm xây dựng Chương trình văn bản năm khả thi, ban hành đầy đủ, kịp tiến độ, chất lượng.
4. Hoàn thiện, phát triển cơ sở dữ liệu về văn bản quy phạm pháp luật, cơ sở dữ liệu về thủ tục hành chính. Sở Tư pháp cần chủ trì, phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh và các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện, các tổ chức khác có liên quan phát triển cơ sở dữ liệu về văn bản quy phạm pháp luật và cơ sở dữ liệu thủ tục hành chính. thường xuyên cập nhật các văn bản mới ban hành, sự thay đổi của thủ tục hành chính.
5. Kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật, theo hướng chuyên nghiệp; điều động, luân chuyển cán bộ, công chức có năng lực, trình độ để làm công tác xây dựng pháp luật, đảm bảo cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật có đủ về biên chế và năng lực, trình độ theo yêu cầu. Ít nhất mỗi năm một lần tổ chức bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, kỹ năng cần thiết cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế.