Từ lâu, Nhà nước đã ban hành các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp để giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam tự tin hội nhập quốc tế. Một trong những vấn đề mà doanh nghiệp khởi nghiệp hiện nay cần quan tâm hỗ trợ là vấn đề pháp lý, bởi pháp lý luôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào. Một doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro nếu không có nền tảng pháp lý vững chắc. Các vấn đề pháp lý mà các doanh nghiệp khởi nghiệp cần, cụ thể như sau:
- Trước thành lập doanh nghiệp: Phát triển ý tưởng thành mô hình kinh doanh, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tài sản trí tuệ, quản trị nguồn nhân lực Startup như các thỏa thuận nên có giữa các đồng sáng lập để quản trị rủi ro, hạn chế mâu thuẫn nội bộ.
- Thành lập doanh nghiệp: các thủ tục pháp lý về thành lập doanh nghiệp, các thủ tục liên quan cần thực hiện để doanh nghiệp có thể đi vào hoạt động.
- Sau thành lập doanh nghiệp: Kênh tiếp cận các nguồn vốn, các nội dung cần chuẩn bị trước khi đàm phán với nhà đầu tư, cơ cấu vốn – cổ phần và quyền kiểm soát, rà soát, quản trị rủi ro pháp lý trong quá trình hoạt động, cơ cấu tổ chức quản lý đảm bảo doanh nghiệp phát triển bền vững, thực hiện luật lao động và bảo hiểm xã hội, giải quyết tranh chấp lao động, tranh chấp hợp đồng,..
Hiện nay, phong trào khởi nghiệp ở nước ta đang có xu hướng nổ rộ, số lượng các vườn ươm, cơ sở hỗ trợ khởi nghiệp ngày một gia tăng. Việt Nam cũng đã có những công ty khởi nghiệp thành công như Công ty Thương mại điện tử Vatgia, hay trò chơi trực tuyến Flappy Bird, VNG (tiền thân của VinaGame)... Tuy nhiên về nhận thức và thực thi pháp luật của bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp còn hạn chế. Do vậy, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách để hỗ trợ pháp lý, tạo điều kiện để các doanh nghiệp khởi nghiệp có nền tảng pháp lý vững chắc và hoạt động hiệu quả hơn.

Techfest- Ngày hội khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia
1. Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ
Ngày 28/5/2008, Chính phủ đã ký Nghị định số 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp với mục tiêu xác định rõ cơ chế hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, được thực hiện bằng các hình thức, biện pháp và nội dung phù hợp, nhằm định hướng, nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, giúp doanh nghiệp hoạt động và phát triển dựa trên một nền tảng pháp lý ổn định, chắc chắn, bền vững, lâu dài.
Nguyên tắc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định 66/2008/NĐ-CP được thực hiện đối với mọi doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, hình thức tổ chức, quy mô kinh doanh và lĩnh vực hoạt động. Chính phủ cũng khuyến khích hoạt động hỗ trợ pháp lý được thực hiện bằng nhiều cách theo những hình thức phù hợp. Và một nội dung quan trọng là hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cần được thực hiện trên nguyên tắc có sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức đại diện của doanh nghiệp. Như vậy, vai trò của các hiệp hội, tổ chức xã hội của doanh nghiệp từ trung ương đến địa phương được xác định là hết sức quan trọng trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Nghị định 66/2008/NĐ-CP cũng xác định trách nhiệm của doanh nghiệp là cần chủ động tìm hiểu pháp luật, bố trí cán bộ phụ trách công tác pháp chế doanh nghiệp hoặc thuê luật sư tư vấn để giúp doanh nghiệp thực thi pháp luật đồng thời phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức đại diện của doanh nghiệp trong việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý.
Nghị định quy định hai phương thức hỗ trợ pháp lý của nhà nước đối với doanh nghiệp, đó là:
Phương thức thứ nhất, hỗ trợ thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước. Đây là phương thức hỗ trợ thường xuyên được thực hiện thông qua 5 hình thức như: xây dựng và khai thác các cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động của doanh nghiệp; xây dựng tài liệu giới thiệu, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật; bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp; giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp và tiếp nhận kiến nghị của doanh nghiệp về hoàn thiện pháp luật.
Phương thức thứ hai, hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, bao gồm Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành và chương trình hỗ trợ pháp lý của Bộ, ngành và các địa phương. Đây là phương thức hỗ trợ được xác lập căn cứ vào thực trạng và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ, ở từng địa phương, được áp dụng ưu tiên cho các đối tượng khác nhau. Phương thức này giúp khai thác được các nguồn lực và sự tham gia của các chủ thể khác ngoài cơ quan nhà nước trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.

Hội thảo rà soát, đánh giá quy định Nghị định 66/2008/NĐ-CP
Theo Nghị định 66/2008/NĐ-CP, Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong phạm vi cả nước. Thực hiện quy định này, Bộ Tư pháp đã xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 585/QĐ-TTg ngày 05/5/2008 (Chương trình 585) giai đoạn 2010-2014 và Quyết định 2139/QĐ-TTg ngày 28/11/2014 giai đoạn 2015-2020. Chương trình này nhằm triển khai đồng bộ các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, phòng chống rủi ro pháp lý và tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tiếp đó, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 108/QĐ-BTP ngày 23/01/2017 và
Công văn 1154/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL ngày 10/4/2017 về kế hoạch theo dõi thực hiện pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành năm 2017 được xác định là lĩnh vực hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Bộ cũng đã chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động khởi nghiệp. Bộ Tư pháp cũng đã yêu cầu các bộ, ngành có liên quan đó tập trung rà soát, tổng hợp các văn bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các bộ ngành. Theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp, doanh nghiệp khởi nghiệp để tổ chức hoạt động theo dõi, hỗ trợ là các doanh nghiệp được tổ chức, hoạt động trong khoảng thời gian 02 năm (tính từ thời điểm được thành lập), với các ngành nghề sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ thuộc lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp - thương mại, thông tin - truyền thông và xây dựng.
2. Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ
Ngày 16/5/2016, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2016-2020, đặt mục tiêu tới năm 2020 cả nước ta có 1 triệu doanh nghiệp (hiện nay mới có trên 500.000 doanh nghiệp). Ngày 18/5/2016, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Ðề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025" tại Quyết định số 844/QĐ-TTg, tập trung vào các hoạt động như: xây dựng cổng thông tin hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia; khu tập trung dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp tại các bộ, ngành, địa phương; kết nối mạng lưới khởi nghiệp, hỗ trợ, đầu tư mạo hiểm của Việt Nam với quốc tế; ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật…
Một hệ sinh thái khởi nghiệp bền vững gồm năm yếu tố cấu thành: (i) nguồn cung là các viện nghiên cứu, trường đại học, các nhà khoa học; (ii) nguồn cầu là các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp khởi nghiệp; (iii)cơ sở dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp; (iv) các nhà đầu tư; (v) cơ sở pháp lý, hệ thống pháp luật để bảo hộ, bảo vệ cho những nhà đầu tư, cá nhân khởi nghiệp. Một trong những kênh hỗ trợ chính là không gian làm việc chung cho hàng trăm doanh nghiệp.

Hội thảo liên kết xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp tổ chức tại Hải Phòng
Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia đến năm 2025 đã có nội dung rõ ràng về pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo liên quan tới sử dụng kinh phí của Nhà nước. Mục tiêu của đề án là đến năm 2020 hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; thiết lập được Cổng thông tin khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia; hỗ trợ được 800 dự án, 200 doanh nghiệp khởi nghiệp, trong đó 50 doanh nghiệp gọi được vốn thành công từ các nhà đầu tư mạo hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập, với tổng giá trị ước tính khoảng 1.000 tỷ đồng. Đến năm 2025, hỗ trợ phát triển 2.000 dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; hỗ trợ phát triển 600 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; 100 doanh nghiệp tham gia Đề án gọi được vốn đầu tư từ các nhà đầu tư mạo hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập, với tổng giá trị ước tính khoảng 2.000 tỷ đồng.
3. Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ngày 12/6/2017, Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo thêm cơ sở pháp lý cho việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Các tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa theo Luật bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng 01 trong 02 tiêu chí sau: (i) Tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng; tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng; (ii) Doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa được xác định theo lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp và xây dựng; thương mại và dịch vụ.
Luật được thiết kế theo hướng các hỗ trợ trọng tâm chỉ tập trung cho 3 đối tượng doanh nghiệp, gồm: Doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập trên cơ sở chuyển đổi từ hộ kinh doanh; Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo và Doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Về hỗ trợ, các doanh nghiệp này sẽ được hỗ trợ tiếp cận tín dụng, thuế, kế toán, hỗ trợ mặt bằng sản xuất; công nghệ, cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung, mở rộng thị trường, hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực.

Hội thảo góp ý Dự thảo Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội
Hỗ trợ pháp lý dành cho đối tượng doanh nghiệp này được quy định tại Điều 14 của Luật,
cụ thể: Cổng thông tin quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trang thông tin điện tử của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có trách nhiệm công bố các thông tin về kế hoạch, chương trình, dự án, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Thông tin chỉ dẫn kinh doanh; thông tin về tín dụng, thị trường, sản phẩm, công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp; Các thông tin khác theo nhu cầu của doanh nghiệp phù hợp với quy định của pháp luật. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xây dựng mạng lưới tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được miễn, giảm chi phí tư vấn khi sử dụng dịch vụ tư vấn thuộc mạng lưới tư vấn viên. Ngoài ra, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan, tổ chức, cần: Xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu về pháp luật; Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý để cung cấp thông tin, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tư vấn pháp luật.
Luật hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa được xây dựng theo quan điểm hỗ trợ theo quy mô, hỗ trợ có tính chọn lọc, trọng điểm theo định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, góp phần tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và tự chủ của nền kinh tế. Như vậy, đến nay Nhà nước đã ban hành khung pháp lý đồng bộ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nói chung và cho các doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng, có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp trong xu thế phát triển chung của đất nước và trên thế giới./.
- Hà My-