Công tác kiểm tra VBQPPL năm 2018 tiếp tục được triển khai có hệ thống, toàn diện, có chiều sâu, gắn với hoạt động rà soát, hệ thống hóa văn bản. Các địa phương đều ban hành Kế hoạch công tác và triển khai kịp thời. 13 địa phương
[1] đã ban hành Quy chế cho công tác này. Đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản phát triển về số lượng và chất lượng, như: An Giang, Cà Mau, Lâm Đồng, Tp. Hồ Chí Minh. Các địa phương cũng chú trọng tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ làm công tác văn bản, như Bình Dương, Tây Ninh, Bình Thuận…
Trong năm 2018, Sở Tư pháp 25 tỉnh thành khu vực phía Nam đã tiến hành kiểm tra 2.397 văn bản, trong đó, tự kiểm tra 1.354 văn bản, kiểm tra theo thẩm quyền 1.093 văn bản. Qua kiểm tra đã phát hiện 239 văn bản có sai sót, chiếm khoảng 10%, chủ yếu là sai sót về hình thức (143 văn bản), chỉ có 52 văn bản sai sót về nội dung, thẩm quyền, căn cứ ban hành văn bản (chiếm 2,2%). Một số sai sót thường mắc phải như: còn sử dụng văn bản hành chính để làm căn cứ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chưa quy định cụ thể ngày, tháng, năm có hiệu lực theo quy định tại khoản 1 Điều 38 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP. Các văn bản có sai sót đều được các cơ quan ban hành kiểm tra lại và xử lý kịp thời, theo quy định. Ngoài ra các địa phương còn kiểm tra tại địa bàn quận, huyện (Bến Tre, Sóc Trăng, Phú Yên, Lâm Đồng) và kiểm tra theo chuyên đề, như về lĩnh vực đất đai, tài nguyên, khoáng sản, môi trường (Tây Ninh, Long An), lĩnh vực nội vụ (Phú Yên), lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo (Hậu Giang)…
 |
|
 |
Tập huấn công tác kiểm tra, rà soát văn bản tại Phú Yên và Kiên Giang
Nhìn chung, công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL tại Khu vực đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần tích cực trong việc đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, từng bước lập lại kỷ cương, nâng cao chất lượng công tác soạn thảo, ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp. Bên cạnh đó, qua quá trình thực hiện, công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL cũng vướng phải một số khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ:
- Số lượng văn bản cần kiểm tra, rà soát, xử lý nhiều, nhưng chính sách, chế độ thu hút, đãi ngộ cho đội ngũ làm công tác văn bản còn hạn chế, chưa khuyến khích được cán bộ toàn tâm, toàn lực với công việc. Đồng thời việc đôn đốc, xử lý văn bản sau kiểm tra chưa được kịp thời
- Kiểm tra, xử lý văn bản là công việc phức tạp, khó khăn, việc xử lý văn bản đòi hỏi phải có chuyên môn sâu và có bản lĩnh nghề nghiệp, trong khi đội ngũ công chức tư pháp một số đơn vị còn hạn chế về nghiệp vụ, chưa có kinh nghiệm;
- Cộng tác viên tại một số địa phương chưa được quan tâm và đi vào hoạt động thực chất, có tỉnh chưa xây dựng được đội ngũ cộng tác viên do không có nhu cầu hoặc không có nguồn để kiện toàn, bổ sung.
- Cơ chế phối hợp giữa Sở Tư pháp với các Sở ngành địa phương trong quá trình soạn thảo, thẩm định, ban hành, kiểm tra, xử lý VBQPPL còn chưa được chú trọng, dẫn đến hiệu quả của công tác này chưa cao. Các cơ quan khi ban hành VBQPPL chưa gửi kịp thời cho Sở Tư pháp để kiểm tra. Việc kiểm tra văn bản đôi khi còn chậm, việc xử lý văn bản trái pháp luật của cấp huyện còn thụ động, chưa thông tin, phản hồi kịp thời đến cơ quan kiểm tra theo thẩm quyền sau khi có kết quả kiểm tra. Trong kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật còn tình trạng nể nang, dè dặt, né tránh, ngại va chạm, dẫn đến một số văn bản trái pháp luật không được kiểm tra hoặc có kiểm tra nhưng không được xử lý triệt để theo quy định, dẫn đến tác động tiêu cực, làm giảm hiệu quả công tác kiểm tra văn bản.
Một số kiến nghị:
Công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL khá phức tạp, đòi hỏi kinh nghiệm và nghiệp vụ chuyên sâu. Do đó, để công tác này được hiệu quả, thiết nghĩ các Bộ, ngành và địa phương cần tiến hành đồng bộ một số công việc sau:
Thứ nhất: Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 và Nghị định 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành VBQPPL. Công tác xây dựng văn bản phải bảo đảm tuân thủ đúng quy trình luật định, có sự tham gia góp ý của các đơn vị liên quan và đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn bản; việc soạn thảo văn bản phải giao cho cán bộ đủ năng lực, kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên môn và kiến thức pháp luật.
Thứ hai: Tăng cường nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác này, cần có công chức chuyên trách, thường xuyên được bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ chuyên môn và kỹ năng trình bày văn bản. Ngoài ra, cần xây dựng đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản là các chuyên gia, người có kinh nghiệm trong công tác pháp luật và trong các lĩnh vực chuyên ngành. Đây là đội ngũ hỗ trợ tích cực giúp công tác kiểm tra văn bản được nâng cao cả về chiều rộng và chiều sâu.
Thứ ba: Chủ động trong công tác tự kiểm tra cũng như kiểm tra theo thẩm quyền; Theo dõi, đôn đốc sát sao tiến độ, kết quả xử lý văn bản sau khi kiểm tra. Kiên quyết xử lý đối với những cán bộ lãnh đạo thiếu tinh thần trách nhiệm trong quá trình xây dựng pháp luật, ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật, gây tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội./.
Hà My