Một số khó khăn về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

Một số khó khăn về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng

      Qua 05 thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 và hơn 01 năm triển khai thực hiện Nghị định số 139/2017/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2017  của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng; khai thác, chế biến, kinh doanh khoáng sản làm vật liệu xây dựng, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; kinh doanh bất động sản, phát triển nhà ở, quản lý sử dụng nhà và công sở (sau đây, viết tắt là Nghị định số 139/2017/NĐ-CP), hoạt động xây dựng ở nước ta đã dần đi vào trật tự, điều này được thể hiện thông qua các vụ vi phạm ngày một có chiều hướng giảm dần về số lượng. Tuy nhiên, cùng với quá trình đô thị hóa nhanh, với những diễn biến mới đã làm cho các vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng ngày càng trở nên phức tạp hơn. Tình trạng các vụ việc vi phạm chưa được phát hiện kịp thời, hoặc đã được phát hiện nhưng chưa được xử lý dứt điểm vẫn còn diễn ra khá phổ biến từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Một trong số những nguyên nhân chủ yếu có thể kể đến đó là quy định của pháp luật vẫn còn chưa bao quát được hết các tình huống phát sinh trong đời sống xã hội; hoặc có quy định nhưng lại chưa đủ rõ, không tạo được cách hiểu thống nhất khi áp dụng giải quyết các vụ việc khác nhau. Một số trường hợp cụ thể như:
        Một là, nhiều địa phương khi phát hiện hành vi vi phạm về trật tự xây dựng, cơ quan chức năng không tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính ngay mà thay vào đó là lập biên bản làm việc. Sau đó, người vi phạm đã chấp hành ngay, tức là khi chưa có biên bản vi phạm hành chính thì chủ thể vi phạm đã điều chỉnh hành vi sai phạm của mình đúng với quy định của pháp luật, vi phạm đã không còn, hậu quả đã được khắc phục. Đối với trường hợp này, hiện nay có 02 câu hỏi lớn như sau:
       Thứ nhất, việc lập biên bản làm việc trước khi lập biên bản vi phạm hành chính có bị xem là vi phạm nguyên tắc xử lý vi phạm của Luật Xử lý vi phạm hành chính không?
      Thứ hai, sau khi việc vi phạm đã không còn thì lúc này cơ quan chức năng có phải tiếp tục lập biên bản vi phạm hành chính nữa hay không mặc dù hành vi vi phạm là có tồn tại trước đó?
       Hai là, khi thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà người dân không có tiền đóng phạt, cơ quan chức năng tiếp tục cưỡng chế thì người dân cũng không có tiền để chịu chi phí tháo dỡ. Vậy, chi phí tháo dỡ mà cơ quan nhà nước đã dùng để tổ chức thực hiện lúc này sẽ được xử lý như thế nào? Đồng thời, quyết định xử phạt có bị hết hiệu lực khi hết thời hạn hay không?
       Ba là, trường hợp tiến hành thi công xây dựng nhà ở riêng lẻ trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử văn hóa không có giấy phép xây dựng mà theo quy định phải có giấy phép xây dựng. Mặc dù trên thực tế đối với các trường hợp rõ là không thể cấp phép được, nhưng theo quy định tại điểm b khoản 12 Điều 15 Nghị định số 139/2017/NĐ-CP, điểm c khoản 1 Điều 5 Thông tư số 03/2018/TT-BXD vẫn phải cho 60 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính để tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm làm thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng. Với quy định này, đã tạo ra không ít khó khăn trong việc xử lý vi phạm tại các đơn vị.
       Bốn là, trường hợp đất do mẹ đứng tên, đã già yếu không còn minh mẫn. Các con tự phân chia đất (chưa chuyển quyền sử dụng) và tự tổ chức xây dựng. Các con giao cho một người đứng ra tổ chức xây dựng cho mỗi người con một căn nhà trên phần đất phải xin phép xây dựng nhưng lại không tuân thủ quy định  pháp luật. Việc xác định chủ thể bị xử phạt tại nhiều địa phương vẫn còn chưa thật sự thống nhất với nhau. Có quan điểm cho rằng khi tiến hành xử phạt thì sẽ phạt đối với người đứng ra trực tiếp tổ chức xây dựng, tuy nhiên, một quan điểm khác thì cho rằng việc xử phạt được căn cứ vào ai là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Ngoài ra, việc mỗi người con cử đại diện một người đứng ra xây dựng thì phần trách nhiệm của những người này phải chăng cũng nên được xem xét?
Võ Duy Tồn – Chuyên viên pháp lý
Trung tâm Thông tin, hỗ trợ pháp luật