Để triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 (Luật THADS), ngày 18/7/2015 Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật THADS (sau đây gọi tắt là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP).
Đến nay, sau hơn 03 năm triển khai thực hiện, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đã đạt được những kết quả nhất định trong việc cùng với Luật THADS tạo hành lang pháp lý cơ bản cho lĩnh vực THADS từ đó có sự tác động tích cực và hiệu quả đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước nói chung và công tác THADS nói riêng. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đã bắt đầu bộc lộ những hạn chế nhất định, trong đó có một số quy định chưa phù hợp với Luật THADS và pháp luật khác có liên quan.

Do đó, Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đang được lấy ý kiến rộng rãi của các tổ chức, cá nhân thông qua Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp và Công thông tin điện tử của Chính phủ. Cá nhân xin trao đổi ý kiến liên quan đến 02 vấn đề được quy định tại Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP như sau:
Thứ nhất, liên quan đến việc kê biên tài sản để thi hành án quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
Khoản 1 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định:
“1. Kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu người phải thi hành án chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố tài sản cho người khác mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên, xử lý để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi kê biên tài sản, nếu có người khác tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự
………………………………….”.
Điều này có nghĩa, dù tài sản của người phải thi hành án đã thực hiện việc chuyển nhượng sau khi có bản án, quyết định của Tòa án (sau khi bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật), sẽ vẫn bị kê biên để xử lý nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.
Quan điểm cá nhân cho rằng quy định này đang có sự mâu thuẫn với quy định của Luật Dân sự, Luật THADS và xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba nhận chuyển nhượng tài sản ngay tình (đó là trong trường hợp những giao dịch được thực hiện đúng với các quy định của pháp luật về công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm, hay đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (đối với các giao dịch về đất đai, nhà ở)….bởi những lý do sau:
Một là, xét dưới góc độ đối chiếu với các quy định khác của pháp luật thì quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP có sự mâu thuẫn với rất nhiều quy định trong Bộ luật Dân sự. Cụ thể:
- Bộ Luật Dân sự năm 2005, khoản 2 Điều 170 quy định quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau đây: “…Được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”; Điều 167 quy định: “Quyền sở hữu đối với bất động sản được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đăng ký bất động sản…”
Với Bộ luật Dân sự năm 2015 thì tại Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”; Tại khoản 2 Điều 221 khi quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu đã nêu rõ quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp: “... Được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyề
n khác”; Điều 223 quy định về việc xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó”.
Từ đó có thể thấy, trong trường hợp tài sản nếu không bị áp dụng bất kỳ biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án thì việc người thứ ba khi nhận chuyển nhượng tài sản của người phải thi hành án thực hiện đầy đủ các quy trình thủ tục theo quy định và được cấp giấy chứng nhận là chủ sở hữu thì họ phải là người có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt hợp pháp đối với tài sản. Cơ quan THADS không thể định đoạt tài sản (kê biên, xử lý) của người khác để thi hành nghĩa vụ cho người phải thi hành án theo một quyết định hay bản án nào. Mặt khác, nguyên tắc áp dụng trong THADS là chỉ tiến hành kê biên, xử lý tài sản nếu đó là tài sản của người phải thi hành án (có thể do người thứ ba quản lý, sử dụng nhưng về mặt pháp lý tài sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án). Như vậy, ở góc độ nào đó, quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 62/NĐ-CP cũng mâu thuẫn với chính Luật THADS.
Hai là, khi từng người liên quan đến vụ việc thi hành án thực hiện đúng hoặc làm hết trách nhiệm của mình trong phạm vi cho phép mà Luật đã quy định thì cũng đã có thể hạn chế được rất nhiều tình trạng tẩu tán tài sản của người phải thi hành án và đảm bảo hơn quyền và lợi ích chính đáng của người được thi hành án chứ không cần đến quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 62/NĐ-CP. Theo đó,
Đối với cơ quan THADS (cụ thể là Chấp hành viên được phân công), theo quy định tại Điều 44 Luật THADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay”. Quy định này đã ràng buộc rõ trách nhiệm của Chấp hành viên trong thủ tục này. Do đó, nếu trong trường hợp, việc chuyển dịch tài sản của người phải thi hành án sau thời điểm hết thời hạn tự nguyện thi hành là do lỗi của Chấp hành viên đã không tiến hành xác minh kịp thời để thực hiện các thủ tục nghiệp vụ tiếp theo đảm bảo cho quá trình thi hành án (kê biên tài sản), ảnh hưởng đến quyền lợi của người được thi hành án cũng như người thứ ba ngay tình đã nhận chuyển dịch tài sản thì phải xem xét đến trách nhiệm bồi thường của Chấp hành viên.
Đối với người phải thi hành án, việc chuyển dịch tài sản khi mà họ biết rằng họ đang phải có trách nhiệm phải thi hành nghĩa vụ theo một bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là một hành vi tẩu tán tài sản (đối với người được thi hành án) và là hành vi có dấu hiệu của sự lừa dối (đối với người nhận chuyển dịch). Do đó, trong trường hợp này cần phải xem xét trách nhiệm của người phải thi hành án chứ không thể bắt người nhận chuyển nhượng tài sản hợp pháp (người thứ ba ngay tình) phải chịu hậu quả pháp lý.
Đối với người được thi hành án, chính họ phải là người tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước thông qua các quy định của pháp luật đã cho phép. Theo đó, người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời song song với lúc nộp đơn ngay khi tòa án thụ lý vụ việc để tránh nguy cơ tẩu tán tài sản của người phải thi hành án ngay từ giai đoạn khởi kiện tại Tòa án.
Ba là, đứng dưới góc độ tâm lý của người dân. Quy định này sẽ gây ra tâm lý hoang mang trong người dân khi thực hiện các giao dịch dân sự. Bởi với quy định này, dù họ đã thực hiện theo đúng các thủ tục mà Nhà nước quy định (thực hiện giao dịch có hợp đồng công chứng và dù được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền quyền sở hữu - đối với tài sản là quyền sử dụng đất) nhưng có thể bị mất bất cứ lúc nào hoặc là chủ sở hữu tài sản nhưng không có quyền để định đoạt tài sản vì bị cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp ngăn chặn. Đặt quy định này dưới khía cạnh người dân, khi tham gia giao dịch, họ không có đủ công cụ, phương tiện để tìm hiểu hết được tài sản mà mình đang thực hiện hoạt động mua, nhận chuyển nhượng có phải của người có nghĩa vụ phải thi hành án trong một bản án, quyết định nào đó hay không. Bởi hiện nay vấn đề liên quan đến quyền tiếp cận thông tin của người dân mà nhất là thông tin liên quan đến các bản án, quyết định của Tòa án rất khó khăn, cũng đang còn là vấn đề tranh cãi.
Chính vì vậy, quan điểm cá nhân cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung trong Dự thảo Nghị định số 62/2015/NĐ-CP lần này khi có sự phân chia ra 02 trường hợp liên quan đến thời điểm: Chưa hoàn thành việc đăng ký và đã hoàn thành việc đăng ký là có phần hợp lý hơn. Cụ thể:
“1………….
Trường hợp có giao dịch về tài sản mà người phải thi hành án không sử dụng khoản tiền thu được từ giao dịch đó để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc có tài sản khác nhưng không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án thì xử lý như sau:
a) Trường hợp việc chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng tài sản, chuyển quyền sử dụng đất nhưng chưa hoàn thành việc đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dũng thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định. Khi kê biên tài sản, nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật THADS.
Trường hợp việc chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng tài sản, chuyển quyền sử dụng đất kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng đã hoàn thành việc đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì Chấp hành viên không kê biên tài sản mà thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật THADS.
Việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền”.
(Còn tiếp...)
Thùy Dung