Thứ hai, liên quan đến việc phân chia, xử lý tài sản chung được quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
Điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định:
“Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dũng đất chung của hộ gia đình thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời điểm được nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Chấp hành viên thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng cho các thành viên trong hộ gia đình biết.
Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ”.
Quy định này được hiểu là Chấp hành viên sẽ tiến hành tự phân chia tài sản chung của vợ, chồng, hộ gia đình trong trường hợp đương sự không tự thỏa thuận được và cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tuy nhiên, khoản 1 Điều 74 Luật THADS quy định:
“1. Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.
Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án”.

Điều này có nghĩa, trong trường hợp đương sự không tự thỏa thuận cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên phải yêu cầu Tòa án giải quyết và sẽ thi hành theo quyết định của Tòa án.
Như vậy, việc phân chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đã có sự mâu thuẫn với Luật THADS. Do vậy, Dự thảo Nghị định sửa đổi lần này đã đưa ra 02 phương án liên quan đến điểm c khoản 1 Điều 24 như sau:
Một là, bãi bỏ điểm c khoản 1 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
Hai là, đề nghị bãi bỏ quy định về thẩm quyền của Chấp hành viên trong việc phân chia quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình nhưng vẫn giữ lại thẩm quyền phân chia tài sản của vợ, chồng và quy định rõ hơn trình tự, thủ tục cho họ thỏa thuận trước khi Chấp hành viên phân chia. Đồng thời, xác định căn cứ để Chấp hành viên lựa chọn tài sản để thi hành án, cụ thể:
“Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên thực hiện việc thông báo cho người phải thi hành án và vợ hoặc chồng của họ biết để tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, lựa chọn tài sản thi hành án. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 Luật THADS hoặc thỏa thuận không được thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, lựa chọn tài sản để kê biên và thông báo cho vợ, chồng biết. Trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên căn cứ tổng giá trị khối tài sản chung; phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung và nghĩa vụ phải thi hành án để tiến hành kê biên, xử lý một hoặc một số tài sản phù hợp và trả lại cho vợ hoặc chồng giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ nếu có”.
Quan điểm của cá nhân ủng hộ phương án 1, tức là bãi bỏ hoàn toàn điểm c khoản 1 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, vì các lý do sau:
(i) Về nguyên tắc áp dụng pháp luật: Khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Như vậy, dựa trên nguyên tắc áp dụng văn bản pháp luật thì trong trường hợp này nếu áp dụng theo phương án 2 của Dự thảo sửa đổi thì có sự vi phạm về hình thức. Do đó, trong điều kiện Luật THADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 vẫn đang còn hiệu lực và đã có quy định cụ thể về vấn đề xử lý tài sản chung của vợ, chồng theo hướng Chấp hành viên sẽ xử lý theo quyết định của Tòa án thì nên áp dụng theo đúng quy định của Luật.
(ii) Nếu quy định như phương án 2, Chấp hành viên sẽ có rất nhiều quyền. Tuy nhiên, điều này chưa hẳn là tốt cho Chấp hành viên mà trái lại có thể sẽ gây thêm khó khăn hơn trong quá trình thi hành. Bởi, để phân chia tài sản của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án phải dựa trên những quy định rất chặt chẽ của quy trình tố tụng theo Luật Tố tụng dân sự. Và trong thực tiễn, việc giải quyết các vụ việc phân chia tài sản của vợ, chồng tại Tòa án mất rất nhiều thời gian và trãi qua nhiều cấp xét xử mà vẫn còn bị khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó, Chấp hành viên hiện lại chưa có cơ chế nào để thực hiện việc phân chia này trong khi đương sự đã không thể tự thỏa thuận thì không dễ dàng gì lại vui vẽ để cho Chấp hành viên thực hiện việc phân chia tài sản của họ.

Thêm vào đó, hiện nay Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 cũng đã mở rộng phạm vi trách nhiệm liên quan đến công chức phải bồi thường trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình. Chính vì vậy, một khi Nghị định trao cho Chấp hành viên quá nhiều trong khi chưa có cơ chế thực hiện thuận lợi thì rất dễ dẫn đến sai sót trong quá trình giải quyết và hậu quả bồi thường có thể tăng lên.
(iii) Việc quy định như phương án 2 của Dự án là mong muốn rút ngắn thời gian giải quyết vụ việc THADS nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người được thi hành án vì xuất phát từ thực tiễn hiện nay có một lượng án lớn mà các cơ quan THADS không thể thi hành được do phải chờ kết quả giải quyết của Tòa án để phân chia tài sản dẫn đến vụ việc bị kéo dài ảnh hưởng đến. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân thì một khi đã không tự thỏa thuận được từ ban đầu rồi thì không dễ dàng gì vợ, chồng sẽ chấp nhận sự phân chia của Chấp hành viên. Khi không đồng ý với việc phân chia của Chấp hành viên thì họ lại quay về thủ tục ban đầu là
“quyền khởi kiện ra Tòa”. Mà như vậy, thời gian lại còn bị kéo dài hơn nếu ngay từ đầu Chấp hành viên hướng dẫn, thông báo, yêu cầu Tòa án và chỉ phân chia, xử lý theo quyết định của Tòa án.
Thùy Dung