MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI QUẢN TÀI VIÊN, DOANH NGHIỆP HÀNH NGHỀ QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI QUẢN TÀI VIÊN, DOANH NGHIỆP HÀNH NGHỀ QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN

Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (sau đây gọi tắt là Quản tài viên) là chế định mới, được Luật Phá sản năm 2014 quy định để thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản thay chế định Tổ quản lý, thanh lý tài sản của Luật Phá sản năm 2004.

1. Một số khó khăn, vướng mắc
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (sau đây gọi tắt là Quản tài viên) là chế định mới, được Luật Phá sản năm 2014 quy định để thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản thay chế định Tổ quản lý, thanh lý tài sản của Luật Phá sản năm 2004.
Hướng dẫn cụ thể về chế định này, ngày 16/02/2015 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản (sau đây gọi tắt là Nghị định số 22/2015/NĐ-CP). Trong đó, Bộ Tư pháp là cơ quan được giao trách nhiệm giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong phạm vi cả nước; UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tại địa phương và Sở Tư pháp là cơ quan chịu trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh thực hiện việc quản lý này. Tuy nhiên, qua 05 năm thi hành Luật phá sản, thực tiễn quản lý nhà nước về Quản tài viên vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cơ chế quản lý nhà nước đối với hoạt động Quản tài viên còn chưa chặt chẽ. Cụ thể:
Thứ nhất, Sở Tư pháp nơi Quản tài viên đăng ký hành nghề gặp khó khăn trong việc quản lý nhà nước đối với hoạt động hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của Quản tài viên
Khoản 2 Điều 24 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP quy định: “Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và hoạt động hành nghề quản lý, thanh lý tài sản tại địa phương”. Nói cách khác, hoạt động của Quản tài viên hiện nay thuộc sự quản lý trực tiếp của Sở Tư pháp nơi Quản tài viên đăng ký hành nghề. Tuy nhiên, trên thực tế vai trò của Sở Tư pháp rất mờ nhạt. Các Sở Tư pháp hiện nay chủ yếu quản lý về tổ chức (số lượng Quản tài viên), đối với hoạt động hành nghề còn rất hạn chế và bị phân tán bởi trách nhiệm giám sát của một số chủ thể tiến hành thủ tục phá sản.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 9, khoản 6 Điều 16, khoản 3 Điều 17 và điểm b khoản 2 Điều 120 Luật Phá sản năm 2014, khi Quản tài viên tham gia giải quyết vụ việc phá sản, hoạt động hành nghề của Quản tài viên chịu sự giám sát trực tiếp của Thẩm phán giải quyết vụ việc và Chấp hành viên thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Nhưng pháp luật lại không quy định rõ ràng về trách nhiệm phối hợp, trách nhiệm thông báo của các chủ thể tiến hành thủ tục phá sản đối với Sở Tư pháp nơi Quản tài viên đăng ký hành nghề. Pháp luật hiện hành chỉ quy định Thẩm phán có trách nhiệm gửi Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Quản tài viên đến Sở Tư pháp (khoản 4 Điều 10 Thông tư số 01/2015/TT-CA ngày 08/10/2015 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao). Trong trường hợp chỉ định, thay đổi hoặc phát hiện Quản tài viên có các hành vi vi phạm pháp luật khác mà chưa đến mức bị xử phạt vi phạm hành chính; các cơ quan liên quan không bị ràng buộc trách nhiệm thông báo đến Sở Tư pháp. Những quy định trên vô hình chung đã gây khó khăn cho các Sở Tư pháp trong việc thực hiện trách nhiệm quản lý chung vì thiếu thông tin về hoạt động hành nghề của Quản tài viên.
Trước thực trạng trên, ngày 29/01/2019, Cục Bổ trợ Tư pháp – Bộ Tư pháp đã có Công văn số 86/BTTP-ĐGTS về việc triển khai thi hành Nghị định số 22/2015/NĐ-CP, trong đó hướng dẫn Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện quản lý nhà nước về Quản tài viên như sau: “Có cơ chế phối hợp với Cơ quan thi hành án dân sự thực hiện giám sát hoạt động đối với Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản khi thực hiện thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản”. Tuy nhiên, hướng dẫn trên chỉ mang tính khái quát, định hướng và tập trung vào việc xây dựng cơ chế phối hợp giữa Sở Tư pháp với Cục thi hành án dân sự để quản lý hoạt động thanh lý tài sản của Quản tài viên, chưa đề cập đến mối quan hệ với các cơ quan tiến hành thủ tục phá sản khác như Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân. Hiện nay, trong Khu vực phía Nam, Sở Tư pháp tỉnh An Giang và Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang đã ban hành Quy chế phối hợp trong công tác thi hành Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản và giám sát hoạt động của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trên địa bàn tỉnh An Giang. Nhưng thực tế chỉ có một vài điều khoản quy định về nội dung phối hợp[1], phần lớn nội dung của bản Quy chế quy định về trách nhiệm riêng biệt của từng cơ quan.
Thứ hai, thiếu cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về Quản tài viên, Quản tài viên với các cơ quan, tổ chức có liên quan khác
Với đặc điểm của hoạt động giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là thường có các chủ nợ, người mắc nợ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và tài sản ở nhiều địa điểm khác nhau. Do vậy, pháp luật hiện hành không giới hạn phạm vi hoạt động của Quản tài viên, họ được hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trên toàn lãnh thổ Việt Nam (khoản 4 Điều 9 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP). Song, hiện nay các cơ quan có thẩm quyền chưa thiết lập được cơ chế phối hợp cụ thể giữa các cơ quan quản lý nhà nước về Quản tài viên, Quản tài viên với các cơ quan, tổ chức tại địa phương diễn ra hoạt động quản lý, thanh lý tài sản. Trường hợp Quản tài viên hành nghề tại nhiều địa bàn khác nhau, việc quản lý trở nên lỏng lẻo: Quản tài viên phải tự mình thực hiện các hoạt động thanh lý tài sản mà thường ít có sự tham gia hỗ trợ của cơ quan thi hành án có thẩm quyền. Trong khi đó, cơ quan quản lý nhà nước là Sở Tư pháp bị giới hạn thẩm quyền quản lý theo phạm vi từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Do vậy, Sở Tư pháp nơi Quản tài viên đăng ký hành nghề khó thực hiện việc quản lý và Sở Tư pháp nơi diễn ra hoạt động thanh lý tài sản cũng không được thông báo, không giám sát được hoạt động của Quản tài viên. Khi xảy ra hành vi vi phạm hoặc sự việc ảnh hưởng đến an ninh trật tự thì chính quyền sở tại và Sở Tư pháp không xử lý kịp thời.
Thứ ba, cơ chế báo cáo của Quản tài viên còn sơ sài, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý về hoạt động hành nghề
Khoản 5 Điều 7 và khoản 5 Điều 13 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP quy định nghĩa vụ của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là: “Báo cáo Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đăng ký hành nghề về hoạt động hành nghề quản lý, thanh lý tài sản theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp”. Nhưng do chưa có hướng dẫn cụ thể về cơ chế báo cáo của Quản tài viên nên dẫn đến thực trạng khi triển khai chế định gặp nhiều khó khăn. Hầu hết các Sở Tư pháp chỉ có số liệu thống kê về tổ chức, số lượng Quản tài viên (được tổng hợp qua hoạt động theo dõi việc đăng ký hành nghề của Quản tài viên). Việc này chưa được khắc phục hoàn toàn tại Thông tư số 03/2019/TT-BTP ngày 20/03/2019 của Bộ Tư pháp. Vì Thông tư số 03/2019/TT-BTP chỉ tăng cường nguồn thông tin cho Sở Tư pháp về số liệu bề nổi, những vấn đề pháp lý hay những khó khăn, vướng mắc trong quá trình hành nghề của Quản tài viên không được thể hiện rõ hoặc bị phụ thuộc vào nội dung báo cáo của Quản tài viên. Nên chưa thể khắc phục triệt để sự lỏng lẻo, thiếu sâu sát của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động hành nghề của Quản tài viên.
Thứ tư, khó khăn của các Sở Tư pháp trong việc bố trí nhân lực để đảm bảo quản lý chuyên sâu hoạt động của Quản tài viên
Những năm gần đây, thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động tư pháp, Sở Tư pháp được giao thực hiện thêm một số nhiệm vụ. Trong đó, có việc thực hiện quản lý các lĩnh vực bổ trợ tư pháp mới như Quản tài viên, doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản; Hòa giải thương mại… Mặc dù khối lượng công việc tăng, nhưng theo chủ trương tinh giản biên chế, số lượng biên chế của các đơn vị lại không tăng và có xu hướng giảm. Do đó, hiện nay, công tác quản lý nhà nước của Sở Tư pháp gặp nhiều khó khăn.
Riêng đối với quản lý, thanh lý tài sản, vì là một hoạt động phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực (về tố tụng, quản lý doanh nghiệp, tài chính – kế toán, thi hành án, đấu giá tài sản …), nên nếu muốn quản lý hoạt động hành nghề của Quản tài viên, đòi hỏi người quản lý cũng phải có sự am hiểu kiến thức về các lĩnh vực này. Tuy nhiên, thực tế tại các Sở Tư pháp trong Khu vực phía Nam, số lượng chuyên viên quản lý mảng bổ trợ tư pháp phải đồng thời quản lý nhiều lĩnh vực bổ trợ tư pháp khác nhau. Trong bối cảnh khối lượng công việc ngày càng tăng, tính chất ngày càng phức tạp, áp lực rất lớn nên công tác quản lý nhà nước về Quản tài viên bị phân tán. Hơn nữa, chuyên viên hiện nay chưa thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng sâu về kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ liên quan đến Quản tài viên nên rất khó để đảm bảo việc quản lý chuyên sâu hoạt động hành nghề của Quản tài viên. 
2. Một số kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước đối với Quản tài viên và đảm bảo hoạt động hành nghề của Quản tài viên cũng như quyền lợi chính đáng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, đồng thời khắc phục những khó khăn, bất cập còn tồn tại, đặt ra yêu cầu phải có sự hướng dẫn cụ thể, rõ ràng. Phương hướng chung là các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động phá sản nói chung, về công tác quản lý nhà nước đối với Quản tài viên nói riêng. Trong đó, lưu ý đến một số vấn đề:
Một là, các cơ quan nhà nước ở địa phương cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy chế phối hợp giữa Sở Tư pháp với các cơ quan tiến hành thủ tục phá sản. Trong đó, có thể tập trung xây dựng cách thức phối hợp như trao đổi thông tin về tổ chức, hoạt động hành nghề, thông tin về hành vi vi phạm của Quản tài viên, phối hợp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra. Đồng thời, cần xác định rõ vị trí của từng cơ quan theo hướng: Sở Tư pháp là cơ quan đầu mối thực hiện quản lý nhà nước; các cơ quan tiến hành thủ tục phá sản trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình có vai trò giám sát, phải kịp thời cung cấp thông tin, phản ánh về hoạt động hành nghề của Quản tài viên đến Sở Tư pháp.
Hai là, cần có hướng dẫn về trách nhiệm phối hợp giữa Quản tài viên, Sở Tư pháp nơi Quản tài viên đăng ký hành nghề và Sở Tư pháp nơi thực hiện các hoạt động quản lý, thanh lý tài sản. Theo quan điểm cá nhân, trong giai đoạn thanh lý tài sản cần yêu cầu Quản tài viên xây dựng kế hoạch tổ chức thanh lý tài sản cụ thể, gửi cơ quan tiến hành thủ tục phá sản cũng như chính quyền sở tại để phối hợp thực hiện và có sự quản lý hoạt động của Quản tài viên. Đồng thời, nên thiết lập cơ chế trao đổi thông tin giữa các cơ quan, tổ chức nơi diễn ra hoạt động quản lý, thanh lý tài sản với Sở Tư pháp nơi Quản tài viên đăng ký hành nghề để đảm bảo việc quản lý nhà nước được thông suốt, thống nhất. 
Ba là, tăng cường việc đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu cho chuyên viên của Sở Tư pháp về kiến thức liên quan đến Quản tài viên và hoạt động hành nghề của họ cũng như kỹ năng quản lý nhà nước đối với vấn đề này./.
                                                                                                                                              Thanh Lam
 
[1] Điều 3, Điều 4, Điều 5, Điều 6, Điều 8, Điều 14 Quy chế phối hợp số 02/QCPH-STP-CTHADS ngày 08/08/2019 của Sở Tư pháp tỉnh An Giang và Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang.