- Công tác tổ chức cán bộ
a. Khó khăn về biên chế
- Số lượng các phòng thuộc Sở Tư pháp ở các địa phương rất khác nhau, chức năng, nhiệm vụ của mỗi phòng cũng chưa được quy định thống nhất; biên chế ở nhiều Sở Tư pháp còn rất hạn chế. Nhiều phòng thuộc Sở chỉ có 1- 2 công chức như Thanh tra Sở....; đặc biệt, biên chế chưa được bổ sung kịp thời cho các Sở Tư pháp để triển khai thực hiện các nhiệm vụ mới được giao. Điều này dẫn đến việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ còn chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao, chưa bao quát và đáp ứng đầy đủ nội dung và yêu cầu quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực được giao.
- Công chức tư pháp cấp huyện còn mỏng, ít được quan tâm bổ sung, trong khi nhiều nhiệm vụ đã được tăng cường cho Phòng Tư pháp; có nhiều Phòng Tư pháp biên chế không được bổ sung trong nhiều năm. Có PTP chỉ có 2 công chức đều là lãnh đạo, phải phụ trách 20 đầu công việc.
- Công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã chưa đủ để triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao, phải kiêm nhiệm nhiều việc tại địa phương; xuất hiện việc luân chuyển công chức làm tư pháp sang hộ tịch và ngược lại dẫn đến thực hiện nhiệm vụ khó khăn; đội ngũ công chức Hộ tịch - Tư pháp thường xuyên biến động sau các kỳ bầu cử Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; đặc biệt số lượng công chức Tư pháp - Hộ tịch chưa được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ vẫn còn nhiều.
b. Khó khăn trong việc sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức các đơn vị chuyên môn của Sở Tư pháp
Hiện nay một số Sở Tư pháp đã xây dựng đề án sắp xếp, kiện toàn tổ chức các đơn vị thuộc của Sở Tư pháp theo yêu cầu của Nghị quyết số 18-NQ/TW, trong đó một số Sở Tư pháp đã thực hiện chuyển đổi xong. Tuy nhiên, hiện nay Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV chưa được ban hành dẫn đến một số địa phương đang lúng túng trong việc sắp xếp, kiện toàn về tên gọi, biên chế,…Bên cạnh đó, việc sắp xếp, sáp nhập tổ chức các đơn vị chuyên môn có chức năng tham mưu quản lý nhiều lĩnh vực khác nhau nên sau khi kiện toàn, sắp xếp lại các phòng chuyên môn trực thuộc gặp khó khăn trong việc phân công lãnh đạo phụ trách vì phòng có quy mô lớn, nhiều chức năng khác nhau; hơn nữa nhiệm vụ chuyên môn của phòng được sáp nhập lại rất rộng nên công chức được phân công phụ trách điều hành phòng chuyên môn còn chưa được sâu sát, chưa có thời gian tập trung cho việc nghiên cứu, nắm bắt sâu lĩnh vực được sáp nhập.
c. Khó khăn về chế độ, chính sách, công tác luân chuyển cán bộ
- Công tác cán bộ, chế độ chính sách đối với công chức cơ quan tư pháp địa phương mặc dù có đổi mới nhưng còn tồn tại, hạn chế làm ảnh hưởng đến chất lượng của đội ngũ cán bộ tư pháp địa phương. Công tác luân chuyển, điều động cán bộ tại một số địa phương chưa được thực hiện theo quy hoạch, chưa phù hợp với tiêu chuẩn, cũng như yêu cầu công việc nên dẫn đến việc bố trí những công chức có tiêu chuẩn không phù hợp. Tình trạng công chức của các cơ quan tư pháp, nhất là công chức có năng lực có xu hướng chuyển sang các cơ quan khác diễn ra khá phổ biến..... Tình hình trên dẫn đến công tác tư pháp có lúc, có nơi chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước và phục vụ đời sống xã hội. Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh Giám đốc Sở Tư pháp tại kỳ họp HĐND của các địa phương cuối năm 2018 thể hiện: Số phiếu tín nhiệm cao, đạt trên 50% phiếu có 11 Đồng chí; Số phiếu tín nhiệm cao, đạt dưới 50% phiếu, có 09 Đồng chí. Có một số Đồng chí tỷ lệ phiếu tín nhiệm cao chỉ đạt 27%. Bên cạnh đó, chế độ chính sách, đặc biệt là chế độ đãi ngộ, ưu đãi nghề vẫn chưa được quy định, nên các cơ quan tư pháp vẫn chưa có sức hút đối với cán bộ trong mối quan hệ tương quan với các ngành nghề tương tự khác (nhất là trong bối cảnh xã hội hóa mạnh mẽ các nghề tư pháp nên số lượng công chức, viên chức xin nghỉ việc chuyển làm ngoài là khá nhiều).
- Nghị định 34/2019/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 24/4/2019 có hiệu lực từ ngày 25/6/2019
quy định sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố. Theo quy định tại Điều 4 của Nghị định thì tất cả các loại cán bộ, công chức cấp xã đều giảm biên chế 02 người so với quy định trước đây. Điều này có nghĩa, khi quy định này được áp dụng, nếu các xã, phường, thị trấn đang có số cán bộ, công chức xã vượt mức thì có khả năng phải thực hiện
tinh giản biên chế, sẽ gây khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế là::
- Công tác xây dựng thể chế chưa điều chỉnh kịp thời với những thay đổi của thực tiễn.
- Sự quan tâm của cấp uỷ, chính quyền một số địa phương trong việc kiện toàn tổ chức cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đầy đủ, tương xứng với vị trí, vai trò của quản lý nhà nước về công tác tư pháp. Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương, thì các nội dung quản lý nhà nước về công tác pháp luật và tư pháp ở địa phương cũng là trách nhiệm Uỷ ban nhân dân các cấp, nhưng thực tế có nơi vẫn coi công tác tư pháp là của ngành Tư pháp, do vậy, chưa thực sự quan tâm đến việc bổ sung biên chế, kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp địa phương, đặc biệt là trong việc ưu tiên bố trí biên chế để triển khai thực hiện các nhiệm vụ tư pháp mới được giao trong thời gian gần đây. Cơ chế phối hợp giữa các ban ngành có liên quan trong việc kiện toàn tổ chức cán bộ cơ quan tư pháp, pháp chế địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc tuyển dụng biên chế phụ thuộc vào chỉ tiêu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phân bổ nên chưa có giải pháp đột phá để thu hút, giữ chân những cán bộ có năng lực, trình độ cao cống hiến cho ngành.
- Chưa có cơ chế, quy định chung của Nhà nước trong việc bổ sung biên chế đồng bộ, kịp thời, tương xứng với việc bổ sung chức năng, nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị trong quá trình thực hiện quản lý Nhà nước để bảo đảm điều kiện triển khai thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được tăng cường.
- Một số cơ quan tư pháp địa phương chưa thực sự chủ động, chưa tranh thủ được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương trong việc bổ sung biên chế, kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp địa phương, đặc biệt là đối với đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã, công chức các Phòng Tư pháp cấp huyện.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị và các điều kiện bảo đảm cho việc triển khai thực hiện công tác tư pháp chưa đáp ứng được với yêu cầu triển khai nhiều nhiệm vụ công tác tư pháp, hiện đại hóa công sở, đặc biệt là những nhiệm vụ mới được giao trong bối cảnh cải cách hành chính, đổi mới phương thức làm việc, tinh giảm biên chế.
- Lĩnh vực văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL)
a. Khó khăn
- Các địa phương còn lúng túng trong việc báo cáo đánh giá tác động chính sách (Đồng Nai, Sóc Trăng, Hậu Giang); Việc lấy ý kiến các đơn vị, cá nhân liên quan trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh, nhất là đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn bản đôi khi chưa hiệu quả, mang tính hình thức (Đồng Nai, Bình Phước, Sóc Trăng); Khó khăn khi không được quy định thủ tục hành chính trong VBQPPL liên quan đến các chính sách đặc thù do địa phương ban hành (Đồng Tháp, Sóc Trăng, Bến Tre); Kỹ năng lồng ghép giới trong xây dựng VBQPPL còn hạn chế (Bình Phước, Sóc Trăng, Hậu Giang)…
- Việc tự kiểm tra VBQPPL ở nhiều địa phương còn mang tính hình thức, không phát hiện được văn bản sai sót. Một số quy định của địa phương ban hành phù hợp với tình hình thực tế nhưng trái với các quy định của pháp luật, như: quy định hạ thấp điều kiện thi giấy phép lái xe đối với đồng bào dân tộc thiểu số, hoặc quy định san gạt đất trong sản xuất nông nghiệp cần có sự đồng ý của chính quyền… Điều này gây khó khăn cho việc quản lý của địa phương. (STP Lâm Đồng)
- Công tác hệ thống hóa VBQPPL kỳ 2014- 2018 diễn ra tương đối chậm,. Nguyên nhân là do các địa phương đã gặp một số khó khăn như: Một số bộ, ngành, địa phương không kịp thời cập nhật văn bản vào Cơ sở dữ liệu quốc gia pháp luật để phục vụ cho hoạt động kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa; Nội dung chi và mức chi cho công tác này còn quy định chung chung, khó thực hiện; Đội ngũ làm công tác pháp chế chủ yếu kiêm nhiệm, không có nhiều kinh nghiệm trong công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản nên ảnh hưởng tới tiến độ công việc.
* Khó khăn về thể chế: Chưa có quy định cụ thể về việc xử lý tập hệ thống hóa văn bản, trách nhiệm của các cơ quan trong việc xử lý kết quả hệ thống hóa; Theo quy định tại Điều 164, Điều 167 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, đối tượng hệ thống hóa là VBQPPL còn hiệu lực, nhưng kết quả hệ thống hóa bao gồm cả danh mục VBQPPL hết hiệu lực toàn bộ và một phần, gây lúng túng trong quá trình thực hiện. (STP Long An)
b. Kiến nghị:
- Bộ Tư pháp sớm tham mưu ban hành Luật sửa đổi một số điều Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 để tháo gỡ khó khăn cho địa phương.
- Bộ Tư pháp và các bộ, ngành liên quan đề xuất Chính phủ sớm ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2011/NĐ-CP và hướng dẫn biên chế để kiện toàn đội gũ cán bộ, công chức pháp chế cho phù hợp. (STP Phú Yên, Long An)
- Bộ Tư pháp và các bộ, ngành liên quan phối hợp ban hành Thông tư thay thế Thông tư số 122/2011/TTLT-BTC-BTP ngày 17/8/2011 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản, theo đó cần quy định cụ thể mức phí phù hợp để địa phương dễ thực hiện (STP Bình Dương, Hậu Giang).
Hà My