a. Khó khăn
- Số lượng biên được bố trí làm công tác TDTHPL của các Sở, ngành rất hạn chế hầu hết là kiêm nhiệm, đa số chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ trong lĩnh vực TDTHPL.
- Kinh phí phục vụ cho hoạt động TDTHPL hiện nay chưa có quy định riêng mà phải vận dụng nhiều văn bản khác nhau để áp dụng.
* Khó khăn, vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật
- Theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp tại văn bản 1083/BTP-QLXLVPHC &TDTHPL thì chi phí tuân thủ pháp luật gồm 5 nhóm: Chi phí hành chính; Chi phí đầu tư để tuân thủ quy định; Phí, lệ phí; Chi phí rủi ro pháp lý; Chi phí không chính thức. Tuy nhiên, hướng dẫn này chưa cụ thể, rõ ràng. Mặt khác, hiện nay có rất nhiều văn bản, tiêu chuẩn đề cập tới các tiêu chí, nội dung về Chỉ số tuân thủ pháp luật. Chẳng hạn: theo hướng dẫn của OECD, chi phí tuân thủ pháp luật gồm 2 nhóm: Chi phí của doanh nghiệp (chi phí hành chính liên quan đến báo cáo cung cấp thông tin và chi phí tuân thủ về mặt nội dung) và chi phí của cơ quan nhà nước (quản lý thực thi quy định pháp luật); Ngân hàng Thế giới lại liệt kê 10 nhóm quy định pháp luật ảnh hưởng đến doanh nghiệp nhỏ và vừa; Còn theo Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 09/11/2018 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp thì có 04 nhóm chi phí tuân thủ pháp luật (chi phí tuân thủ pháp luật về gia nhập thị trường và chi phí tuân thủ pháp luật về xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh); chi phí đầu vào sản xuất, kinh doanh; phí, lệ phí, tiền thuê đất và tiền khai thác tài nguyên; chi phí không chính thức.
Việc hướng dẫn chưa cụ thể, rõ ràng và không có sự đồng bộ, thống nhất với các định nghĩa của các tổ chức khác trên thế giới về chi phí tuân thủ pháp luật, dẫn đến khó khăn trong việc nhận thức đúng, thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ, giải pháp để đạt mục tiêu nâng hạng chỉ số tuân thủ pháp luật theo yêu cầu.
- Nhiệm vụ cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật, đây là nhiệm vụ mới được giao cho ngành Tư pháp và là nhiệm vụ khó, phức tạp, đòi hỏi cán bộ thực hiện công tác này phải có trình độ nhất định, am hiểu sâu về chuyên môn nghiệp vụ, trong khi nguồn nhân lực để thực hiện công tác này còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng. Do đó, việc tham mưu triển khai thực hiện công tác này liên quan đến hầu hết các lĩnh vực thuộc ngành, địa phương quản lý (trong khi ngành Tư pháp không liên quan nhiều) nên sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong thực tế thực hiện.
- Thời gian báo cáo định kỳ về Bộ Tư pháp theo yêu cầu tại văn bản 1083/BTP-QLXLVPHC &TDTHPL (các quý II, III và năm 2019) là quá dày, sẽ tốn rất nhiều thời gian, công sức cho việc báo cáo và tổng hợp báo cáo, trong khi ngành Tư pháp phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ, không đủ biên chế để thực hiện nhiệm vụ này…
b. Kiến nghị
- Sớm ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về TDTHPL theo hướng:
+ Quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong hoạt động TDTHPL;
+ Quy định cụ thể các bước tiến hành hoạt động kiểm tra, điều tra, khảo sát, xử lý kết quả TDTHPL;
+ Quy định cơ chế cộng tác viên trong hoạt động điều tra, khảo sát; giá trị pháp lý của kết luận kiểm tra, xử lý kết quả TDTHPL;
+ Quy định cơ chế phối hợp liên ngành trong tTDTHPL, tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể TDTHPL thực hiện thống nhất, hiệu quả. (STP Đồng Nai)
- Bộ Tư pháp tiếp tục nghiên cứu làm rõ các yếu tố, tiêu chí liên quan đến “chi phí tuân thủ pháp luật”; đồng thời nên có sự tập trung khoanh vùng trong thực hiện hiện công tác này để đảm bảo nguồn nhân lực và hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ cắt giảm, nâng xếp hạng chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật.
- Cần đẩy mạnh công tác truyền thông về cắt giảm, nâng xếp hạng chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật để cán bộ, công chức, cộng đồng doanh nghiệp và người dân hiểu rõ, hưởng ứng và phối hợp thực hiện cho đồng bộ.
- Về xếp hạng chỉ số B1, kiến nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam và các đơn vị có liên quan cập nhật, cung cấp cho các địa phương thực trạng, tình hình xếp hạng của từng địa phương để các địa phương nắm rõ thực trạng (điểm mạnh, điểm yếu…) trong lĩnh vực này, từ đó có giải pháp triển khai phù hợp.
- Bộ Tư pháp quan tâm đẩy mạng công tác tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ về công tác cắt giảm, nâng xếp hạng chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật cho cán bộ, công chức nắm rõ chức năng, nhiệm vụ và cách thức thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa đối với công tác này… (STP Bình Dương)
a. Khó khăn
- Trang thiết bị phục vụ cho công tác xử phạt vi phạm hành chính chưa đáp ứng đầy đủ, kịp thời, đặc biệt là trong các lĩnh vực như y tế, bảo vệ môi trường, đo lường,... Điều kiện kho, bãi phục vụ cho công tác tịch thu, tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính chưa đáp ứng được nhu cầu dẫn đến sự quá tải.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mặc dù được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm nhưng hàng năm có nhiều VBQPPL mới được ban hành cần tuyên truyền, phổ biến trong khi nguồn lực về con người, kinh phí có hạn dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra đã được các cơ quan quan tâm, tổ chức thực hiện thường xuyên, tuy nhiên, một phần do thiếu nhân sự, một phần do các quy định pháp luật chưa đầy đủ, chưa rõ nên vẫn còn tình huống cơ quan, tổ chức bị kiểm tra, thanh tra không thống nhất, không tâm phục, khẩu phục với kết luận kiểm tra, thanh tra hoặc cơ quan thực hiển kiểm tra, thanh tra chưa thể giải thích, trả lời cho đối tượng bị kiểm tra, thanh tra về việc áp dụng các quy định pháp luật trong những tình huống cụ thể.
- Chính phủ đã ban hành Nghị định về Cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC tuy nhiên đến nay chưa có phần mềm chung để thực hiện việc xây dựng, khai thác sử dụng cơ sở dữ liệu về XLVPHC, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý XLVPHC như việc xác định tình tiết tăng nặng trong xử phạt VPHC, công tác thống kê số liệu,...
- Công tác thống kê số liệu theo các biểu mẫu thống kê theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp gặp nhiều khó khăn do một số nội dung được yêu cầu thống kê không có cơ sở để thực hiện hoặc không rõ ràng (như số đối tượng vi phạm hành chính trong trường hợp một đối tượng thực hiện nhiều vụ vi phạm khác nhau hoặc nhiều đối tượng cùng thực hiện một hành vi vi phạm trong cùng một vụ vi phạm, …) gây lúng túng cho cơ quan thống kê; thời hạn để các cơ quan tổng hợp báo cáo quá ngắn trong khi đầu mối để tổng hợp số liệu nhiều, nội dung báo cáo phức tạp, nên khó đáp ứng được cả về thời hạn và nội dung. Đặc biệt gần đây có sự thay đổi về việc thực hiện thống kế báo cáo trong lĩnh vực quản lý XLVPHC theo hướng tiếp tục rút ngắn thời hạn báo cáo, chưa có sự thống nhất trong việc hướng dẫn thực hiện nên tiếp tục gây lúng túng cho địa phương
[1].
- Việc phối hợp giữa các ngành, cơ quan chức năng trong XLVPHC đôi khi chưa kịp thời, chưa thống nhất, đặc biệt là giữa cơ quan quản lý hành chính với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xử lý hồ sơ các vụ việc vi phạm hành chính có dấu hiệu phạm tội hình sự hoặc ngược lại dẫn đến việc không xử lý được do hết thời hiệu, không bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật; giữa cơ quan có thẩm quyền xử phạt với Tòa án nhân dân các cấp còn có cách hiểu khác nhau về quy định pháp luật về XLVPHC dẫn đến không xử lý được vụ việc VPHC, gây ức chế cho cán bộ trong cơ quan quản lý nhà nước, làm giảm hiệu quả, hiệu lực quản lý.
- Về thẩm quyền xử phạt VPHC của các chức danh thuộc lực lượng quản lý thị trường: Theo Quyết định số 34/2018/QĐ-TTg ngày 10/8/2018 thay thế Quyết định số 19/2019/QĐ-TTg ngày 16/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Quản lý thị trường trực thuộc Bộ Công Thương, tại cấp địa phương không còn Chi Cục Quản lý thị trường. Trong khi đó, theo Điều 45 Luật XLVPHC quy định các chức danh có thẩm quyền xử phạt VPHC, trong đó có Chi Cục trưởng Chi Cục Quản lý thị trường. Điều này gây lúng túng cho địa phương khi tiến hành xử phạt VPHC đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền của các chức danh nói chung và của Chi cục trưởng nói riêng khi có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức của Tổng cục Quản lý thị trường theo Quyết định số 34/2018/QĐ-TTg.
- Có tình trạng một hành vi vi phạm nhưng được quy định ở nhiều nghị định khác nhau với mức phạt khác nhau, ví dụ:
+ Hành vi xả rác nơi công cộng, điểm đ Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng, điểm d Khoản 1 Điều 20 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng, điểm c Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng;
+ Hành vi đi vệ sinh không đúng nơi quy định, điểm c khoản 1 Điều 7 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng, điểm b khoản 1 Điều 20 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng;
Tình trạng cùng một hành vi vi phạm nhưng có mức phạt khác nhau đã gây lúng túng cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc xử phạt, đặc biệt là đối với chính quyền cơ sở, là cơ quan có trách nhiệm quản lý về các vấn đề nêu trên và cũng có thẩm quyền xử phạt vi phạm trong các lĩnh vực nêu trên.
- Có tình trạng quy định hành vi vi phạm nhưng thẩm quyền xử phạt không phù hợp thực tiễn quản lý cũng như chưa phù hợp các quy định pháp luật khác, dẫn đến không phát huy được hiệu quả trên thực tế. Ví dụ như hành vi “gây rối trật tự tại phiên tòa” được quy định tại điểm d Khoản 3 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, nhưng Nghị định này không quy định thẩm quyền xử phạt của các chức danh của Tòa án như Chủ tọa phiên toà, Chánh án,…. Trong khi đó, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 và Luật Xử lý vi phạm hành chính thì các chức danh của Tòa án như thẩm phán, chánh án, thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thẩm quyền xử phạt.
- Khó khăn trong việc xử phạt VPHC đối với lĩnh vực xây dựng:
+ Nhiều địa phương khi phát hiện hành vi vi phạm, cơ quan chức năng không tiến hành lập biên bản VPHC ngay mà thay vào đó là lập biên bản làm việc. Sau đó, người vi phạm đã chấp hành ngay theo đúng với quy định của pháp luật. Như vậy
, việc lập biên bản làm việc trước khi lập biên bản VPHC có bị xem là vi phạm nguyên tắc xử lý vi phạm của Luật XLVPHC không? Mặc khác, sau khi việc vi phạm đã không còn thì lúc này cơ quan chức năng có phải tiếp tục lập biên bản VPHC nữa hay không mặc dù hành vi vi phạm là có tồn tại trước đó?
+ Về xây dựng ở nông thôn: Điểm K khoản 2 Điều 89 Luật Xây dựng năm 2014 quy định về trường hợp các công trình xây dựng ở nông thôn được miễn giấy phép xây dựng. Tuy nhiên, nếu người dân có nhu cầu thì cơ quan nhà nước phải cấp giấy phép xây dựng. Trong trường hợp này, nếu người dân xây dựng sai nội dung giấy phép thì có bị xử phạt VPHC không? Xử lý công trình xây dựng không phép, sai phép hiện nay được quy định tại Nghị định số 139/2017/NĐ-CP. Tuy nhiên, Nghị định này chỉ ghi nhận trường hợp đối với công trình không phép, sai phép tại đô thị. Vậy, công trình xây dựng ở nông thôn, cụ thể là trường hợp nêu trên thì hướng xử lý như thế nào là đúng với quy định của pháp luật?
* Hạn chế, bất cập trong quy định của Luật XLVPHC
- Việc không được tạm giữ giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng minh nhân dân, thẻ căn cước gây nhiều khó khăn cho cơ quan chức năng như không có cơ sở xác định các thông tin về đối tượng vi phạm,….
- Thẩm quyền xử phạt của các chức danh như Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc công an cấp tỉnh còn thấp làm tăng khối lượng công việc cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Thời hạn tạm giữ tang vật để xác định giá trị chỉ có tối đa 48 giờ gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt trong trường hợp phải thành lập Hội đồng định giá.
- Quy định về hoãn, giảm, miễn tiền phạt chỉ áp dụng đối với cá nhân, không áp dụng cho tổ chức; điều kiện để được nộp tiền phạt nhiều lần là bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 200.000.000 đồng đối với tổ chức,...
- Các biện pháp cưỡng chế chưa phù hợp, chưa đầy đủ nên hiệu quả không cao, không khả thi.
- Quy định lĩnh vực mà cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính của Luật XLVPHC chưa phù hợp thực tiễn,...
- Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính còn khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu là các địa phương còn lúng túng khi thực hiện các quy định của pháp luật, do các quy định chưa cụ thể, thủ tục áp dụng phức tạp, như xác định nơi cư trú, xác định tình trạng nghiện, việc phối hợp giữa Tòa án, Viện kiểm sát và Phòng Lao động - Thương binh cấp huyện.
b. Kiến nghị:
Trên cơ sở những khó khăn, vướng mắc nêu trên, kiến nghị Bộ Tư pháp quan tâm, giải quyết theo thẩm quyền hoặc kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền giải quyết để giúp các ngành, địa phương tháo gỡ, bảo đảm pháp luật về XLVPHC được áp dụng pháp luật thống nhất, đồng bộ, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực và trên địa bàn, đặc biệt quan tâm về những nội dung bất cập, không khả thi của các quy định về XLVPHC để nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung trong việc chuẩn bị sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC. Bên cạnh đó, kiến nghị Bộ quan tâm việc hướng dẫn nghiệp vụ XLVPHC cho địa phương bảo đảm việc thống nhất, khả thi trong việc áp dụng pháp luật. (STP Tp. Hồ Chí Minh).
Hà My