Phản ánh của khu vực phía Nam về công tác tư pháp (Phần 3)
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Phản ánh kiến nghị ở địa phương

Phản ánh của khu vực phía Nam về công tác tư pháp (Phần 3)

Khu vực phía Nam là địa bàn có tình hình kinh tế tăng trưởng nhanh, mạnh nhất so với toàn quốc, được xem như là điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Trong thành công chung của sự phát triển đó có sự đóng góp rất lớn của ngành tư pháp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các địa phương trong khu vực đã gặp không ít khó khăn, cần được tháo gỡ

 
  1. Lĩnh vực trợ giúp pháp lý (TGPL)
       - Khó khăn lớn nhất trong hoạt động TGPL của địa phương trong thời gian qua là công tác cán bộ việc bổ sung nguồn lực người thực hiện TGPL (viên chức trung tâm) trong thời gian dài không tuyển dụng viên chức theo biên chế được giao, nguyên nhân do chế độ chính sách đối với những người mới được tuyển dụng chưa cao, không đảm bảo được cuộc sống của bản thân, việc thu hút những sinh viên tốt nghiệp đại học luật vào làm việc tại Trung tâm còn hạn chế, những sinh viên này không có nhu cầu xin vào làm việc Trung tâm, vì khi tốt nghiệp họ thường xin việc những cơ quan có điều kiện thuận lợi hơn để đảm bảo cuộc sống. Từ khó khăn này gây ảnh hưởng đến việc bồi dưỡng, phát triển đội ngũ thực hiện công tác trợ giúp pháp lý tại Trung tâm.
        - Hiện nay, số lượng Trợ giúp viên pháp lý ngày càng ít (6 người) (do nghỉ hưu và chuyển công tác khác) làm ảnh hưởng đến tình hình chung của Trung Tâm; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, viên chức của Trung tâm chưa đồng đều, chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác, kỹ năng TGPL còn hạn chế nhất là kỹ năng tham gia tố tụng; chất lượng đội ngũ người thực hiện TGPL (Luật sư ký hợp đồng với Trung tâm) không đồng đều nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng TGPL.
       - Khó khăn trong thực hiện tham gia tố tụng cho đối tượng trong các vụ việc dân sự cụ thể như: khi tiếp nhận yêu cầu của đối tượng, phân công Trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL, khi xem xét chứng cứ hồ sơ vụ việc thấy chứng cứ bất lợi cho họ thì Trợ giúp viên pháp lý đã phân tích những điểm bất lợi, giải thích những quy định của pháp luật đối với yêu cầu của họ để họ hiểu và thực hiện theo quy định. Tuy nhiên, họ lại tự ý ký hợp đồng với luật sư khác để bảo vệ quyền lợi mà không thông báo với Trợ giúp viên pháp lý biết  lý do từ chối trợ giúp viên bảo vệ cho mình, từ đó gây ra cái nhìn không tốt của cơ quan tiến hành tố tụng về đội ngũ trợ giúp viên trong quá trình tham gia tố tụng. Nhìn chung hiện nay vẫn còn một số người dân chưa nắm bắt kịp quy định pháp luật và chưa phối hợp tốt với tổ chức thực hiện TGPL, từ đó dẫn đến việc phối hợp giữa tổ chức thực hiện TGPL với các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thật sự đồng bộ cho nên vụ việc trợ giúp pháp lý không nhiều, chất lượng chưa thoả mãn  theo yêu cầu của đối tượng. 
       - Công tác Truyền thông pháp luật, kết hợp tư vấn pháp luật đôi lúc còn bất cập về thời gian so với một số địa phương dẫn đến người dân tham dự không nhiều, vụ việc tư vấn pháp luật mà người dân yêu cầu tư vấn ít. Lý do là người dân nông thôn do đi làm ăn xa, hoặc vào vụ mùa; sự phối hợp của Trung tâm với Phòng Tư pháp, UBND cấp xã đôi lúc chưa kịp thời, còn mang tính chung chung gây tốn kém thời gian và kinh phí nhưng hiệu quả công tác chưa đạt yêu cầu.
        - Trong quá trình thực hiện TGPL ở tỉnh Đồng Tháp phát sinh trường hợp người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nhưng không thể tham gia trợ giúp pháp lý cho đối tượng này được. Vì theo quy định tại Điều 7 của Luật Trợ giúp pháp lý thì không có quy định đối với trường hợp này nên quyền được TGPL của họ chưa được đảm bảo.(STP Đồng Tháp)
  1. Lĩnh vực công chứng
  1. Khó khăn
        - Để xác định, đưa ra các tiêu chí nhằm đảm bảo phát triển các tổ chức hành nghề công chứng phù hợp với định hướng nêu tại mục 1 và mục 4 - Công văn số 449/BTP-BTTP là rất trừu tượng và khó khăn. Mục tiêu hướng đến nhằm “phát triển tổ chức hành nghề công chứng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu công chứng của từng địa bàn cấp huyện, đảm bảo phát triển các tổ chức HNCC gắn với địa bàn dân cư….; tránh tình trạng tập trung nhiều tổ chức HNCC trên một khu vực…” nhưng khi nghiên cứu để đưa ra chế định cụ thể thì rất khó; nhất là dễ va vấp với Luật Quy hoạch, Luật Doanh Nghiệp và Luật Đầu tư. Đó là chưa kể có thể đụng chạm đến các chủ trương, quy định về cải cách hành chính, thu hút đầu tư hay các chỉ số đánh giá khác được Trung ương quy định.
        - Việc thực hiện thủ tục thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của VPCC khi thay đổi trụ sở từ địa bàn cấp huyện này sang địa bàn cấp huyện khác: nếu không gắn quy định việc xem xét giải quyết hồ sơ chuyển địa bàn với quy định tiêu chí thành lập, phát triển các tổ chức HNCC thì sẽ xảy ra tình trạng chuyển vị trí liên tục, co cụm mà không có căn cứ pháp lý nào để từ chối giải quyết hồ sơ. Điều này tạo khoảng trống pháp lý để lợi dụng thành lập VPCC tại một nơi đi vào hoạt động sẽ chuyển đến nơi khác.



         b. Kiến nghị
         - Bộ Tư pháp cần ban hành Thông tư hướng dẫn mang tính chất quy định khung, để UBND cấp tỉnh có căn cứ xây dựng Quy định tiêu chí thành lập VPCC được đồng bộ, thống nhất. Trong đó nên tập trung quy định tiêu chuẩn công chứng viên tham gia thành lập VPCC chặt chẽ hơn. Ví dụ các trường hợp đã tham gia thành lập, tham gia hợp danh bao nhiêu lần thì không được thành lập mới. Hoặc quá trình hành nghề mà có số thời gian không trực tiếp hành nghề chiếm tỷ lệ bao nhiêu phần trăm; hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính bao nhiêu lần trong quá trình hành nghề….thì không được tham gia thành lập VPCC. Ngoải ra, cần quy định về khoảng cách tối thiểu giữa các tổ chức HNCC trên cùng địa bàn (phân loại dân cư, đô thị…); quy định về các điều kiện hạ tầng kỹ thuật tối thiểu của một VPCC; khả năng quản trị công nghệ thông tin của công chứng viên…
         - Kịp thời sửa đổi Thông tư số 06/2015 và Công bố lại bộ thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng.
       - Kiến nghị Bộ tư pháp khi tham gia xây dựng Luật sửa đổi các Luật như: Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật Đất đai, Luật Nhà ở…. Và sửa đổi bổ sung Nghị định số 29/2015 về Công chứng, Nghị định số 23/2015 về chứng thực hết sức quan tâm đến tính đồng bộ giữa các VBQPPL này gắn với các chủ trương, chính sách khác. Riêng vấn đề nhiệm vụ, thẩm quyền chứng thực hợp đồng giao dịch của UBND cấp huyện, cấp xã nên sớm xem xét đưa vào nghị trình xây dựng VBQPPL thời gian sớm nhất để kịp thời đáp ứng, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong tình hình mới.
       - Kiến nghị Bộ Tư pháp nên xem xét xây dựng Cơ sở dữ  liệu công chứng, Quy chế khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu công chứng toàn quốc cho thống nhất và hiệu quả. Thực trạng mỗi tỉnh một quy định, một nhà cung cấp dịch vụ…. như hiện nay vừa manh mún, thiếu tương thích và không đồng bộ. (STP Bình Phước)
  1. Lĩnh vực bán đấu giá
       - Chưa có hướng dẫn thủ tục chuyển từ Trung tâm bán đấu giá sang doanh nghiệp, gây khó khăn cho địa phương.
       - Hoạt động đấu giá tài sản vẫn tiềm ẩn nhiều tiêu cực, do chế độ bảo mật thông tin chưa được đảm bảo như: thông đồng dìm giá; một số cuộc đấu giá tài sản người tham gia đấu giá khá nhiều nhưng người tham gia trả giá và thực sự muốn mua tài sản thì lại rất ít, từ đó giá trúng đấu giá có mức chênh lệch không cao so với giá khởi điểm (quy định tại Điều 41 Luật Đấu giá tài sản khi thực hiện đấu giá trực tiếp bằng lời nói, không buộc tất cả những người tham gia đấu giá phải trả giá); Việc lựa chọn tổ chức đấu giá tại địa bàn tỉnh của một số đơn vị, địa phương có thời điểm còn mang tính hình thức (do quen biết, nể nang…).
       - Về niêm yết, thông báo công khai việc đấu giá tài sản:
       Tại khoản 1 Điều 35 Luật Đấu giá tài sản quy định niêm yết việc đấu giá tài sản:“a) Đối với tài sản là động sản…phải niêm yết…ít nhất là 07 ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá;b) Đối với tài sản là bất động sản…phải niêm yết…ít nhất là 15 ngày trước ngày mở cuộc đấu giá”.
       Khoản 3 Điều 57 Luật Đấu giá tài sản quy định thông báo công khai việc đấu giá tài sản:“Thời gian thông báo…là 07 ngày làm việc đối với tài sản là động sản, 15 ngày đối với tài sản là bất động sản trước ngày mở cuộc đấu giá…”.
       Như vậy, cùng niêm yết, thông báo công khai nhưng tài sản là động sản quy định là ngày làm việc, còn bất động sản thì quy định là thời gian liên tục, không có sự thống nhất.
        - Khoản 3 Điều 23 Luật Đấu giá tài sản quy định điều kiện đăng ký hoạt động của doanh nghiệp đấu giá tài sản“Công ty đấu giá hợp danh có ít nhất 01 thành viên hợp danh là đấu giá viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc của công ty đấu giá hợp danh là đấu giá viên.” Quy định như trên dễ dẫn đến cách hiểu của mỗi địa phương khác nhau, có thể hiểu khi thành lập công ty đấu giá hợp danh phải có ít nhất 02 đấu giá viên, cách hiểu thứ hai là khi thành lập công ty đấu giá hợp danh chỉ cần 01 đấu giá viên.
        - Việc thực hiện Đề án phát triển và tăng cường năng lực đội ngũ đấu giá viên ở địa phương gặp khó khăn bởi không có cơ chế khuyến khích cho người tham gia các khóa đào tạo nghề đấu giá. Mặt khác, Luật Đấu giá tài sản quy định điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá là khá cao, phải tham gia khóa đào tạo nghề 06 tháng (các trường hợp không thuộc diện miễn đào tạo), tập sự hành nghề 06 tháng và phải tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề đấu giá do Bộ Tư pháp tổ chức. Trong khi đó, Thông tư số 06/2017/TT-BTP ngày 16/5/2017 của Bộ Tư pháp quy định về chương trình khung của khóa đào tạo nghề đấu giá, cơ sở đào tạo nghề đấu giá, việc tập sự và kiểm tra kết quả tập sự hành nghề đấu giá và biểu mẫu trong lĩnh vực đấu giá tài sản không quy định thời gian định kỳ tổ chức kiểm tra kết quả tập sự hành nghề đấu giá.
      b. Kiến nghị
      - Đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn cụ thể hơn việc tổ chức đấu giá trực tiếp bằng lời nói tại cuộc đấu giá theo quy định tại Điều 41 Luật Đấu giá tài sản.
      - Thời hạn niêm yết, thông báo công khai, đề nghị quy định thống nhất là niêm yết, thông báo các sai sót,  liên tục.
       - Đề nghị có hướng dẫn cụ thể về điều kiện đăng ký hoạt động của doanh nghiệp đấu giá tài sản theo quy định tại Điều 23 Luật Đấu giá tài sản. (STP Long An)

Tp. Hồ Chí Minh làm và nhận Phiếu Lý lịch tư pháp tại nhà
  1. Lĩnh vực lý lịch tư pháp (LLTP)
       a. Khó khăn
      - Số lượng thông tin phải cập nhật vào Cơ sở dữ liệu và yêu cầu cấp phiếu LLTP của công dân ngày càng tăng, biên chế ít, quá tải so với nguồn lực hiện có.
       - Xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích là nhiệm vụ mới theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 mà STP phải thực hiện, quy trình xác minh qua nhiều cơ quan khác nhau, công dân chưa chủ động phối hợp. Việc theo dõi, cấp Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt án treo, cải tạo không giam giữ trước năm 2010 quy định không rõ ràng giữa UBND cấp xã và Công an cấp xã. Một số bản án của Tòa án nhân dân các cấp trong tỉnh cũng như tỉnh ngoài trước năm 2010 đa số là đánh máy chữ, đến nay đã mờ không đọc được nội dung, thậm chí không còn lưu trữ để cung cấp, khó khăn cho STP trong việc xác định điều kiện đương nhiên được xóa án tích cho công dân.
       - Luật LLTP chưa cập nhật được những quy định mới của Hiến pháp năm 2013 và những luật khác có liên quan đến LLTP như Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Thi hành án hình sự năm 2010, Luật Phí, lệ phí năm 2015… dẫn đến một số quy định của Luật LLTP không còn phù hợp. Ví dụ: khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định điều kiện đương nhiên được xóa án tích là “Người bị kết án không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn Bộ luật này quy định” . Khoản 2 Điều 69 và Điều 107 của Bộ luật Hình sự năm 2015 còn quy định 05 trường hợp người bị kết án không bị coi là có án tích, mà Luật LLTP không quy định, do đó, khó khăn cho quá trình thực hiện cấp Phiếu LLTP cho người có yêu cầu…
       - Đối với những người có án tích đã được xóa án tích, nhưng trong Phiếu LLTP số 2 vẫn thể hiện tình trạng án tích. Như vậy, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người dân, ảnh hưởng đến quyền bí mật thông tin đời tư của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 (một số trường hợp người dân mất cơ hội xin được việc làm, xuất cảnh hoặc các cơ hội khác).
       - Quy định về các trường hợp được miễn, giảm phí cung cấp thông tin LLTP không có đối tượng là học sinh trong độ tuổi từ 15 trở lên (học sinh dưới 15 tuổi là trẻ em nên thuộc đối tượng được miễn phí), trong khi đó, sinh viên có độ tuổi cao hơn thì lại được giảm (50%). Điều này là bất hợp lý vì các đối tượng nêu trên hầu như đều có điều kiện gần giống nhau là phụ thuộc vào gia đình về vấn đề kinh tế (Thông tư số 244/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính).
       - Quy định việc xác minh thời gian cư trú tại địa phương sau khi chấp hành xong hình phạt của bản án hình sự mà không phạm tội mới giao cho UBND cấp xã (công chức Tư pháp - hộ tịch) thực hiện tại Thông tư liên tịch số 04 là không khả thi. Vì theo dõi và quản lý về an ninh trật tự, cư trú là do Công an xã đảm nhiệm.
Ngoài ra, Luật LLTP không có quy định về cấp phiếu LLTP cho pháp nhân; quy định về xác nhận thời gian cư trú đối với người nước ngoài của cơ quan công an còn chung chung, khó xác định thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ yêu cầu cấp phiếu LLTP cho công dân …
  1. Kiến nghị
       - Bộ Tư pháp sớm tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật LLTP và văn bản hướng dẫn thi hành cho thống nhất, phù hợp với các quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Thi hành án hình sự năm 2010, Luật Phí, lệ phí năm 2015… về xóa án tích, xác minh điều kiện được xóa án tích, thời hạn cấp Phiếu LLTP trong Luật LLTP...
       - Bộ Tư pháp sớm tham mưu Chính phủ ban hành quy chế phối hợp và tổ chức ký kết quy chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đối với việc xác minh và trả lời kết quả xác minh thông tin về bản án hoặc người bị kết án đã chấp hành đầy đủ quyết định của Tòa án trong bản án (như chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, án phí, trách nhiệm dân sự cũng như thông tin người đó có phạm tội mới trong thời hạn quy định để đương nhiên được xóa án tích không). Đặc biệt đối ác bản án đã bị mờ không đọc được, không còn lưu trữ để cơ quan Tư pháp thực hiện xóa án tích cho công dân theo quy định.
      -  Sớm thay đổi quy định về đối tượng cấp phiếu LLTP số 2, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và việc tái hòa nhập cộng đồng đối với người bị kết án. Nên thống nhất chỉ sử dụng một loại phiếu LLTP có nội dung như Phiếu LLTP số 1 hiện nay. Bên cạnh đó, bổ sung quy định quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân thuộc phạm vi quản lý của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị, xã hội nếu pháp luật liên quan có quy định để các cơ quan, tổ chức này thực hiện nhiệm vụ của mình. Bổ sung quy định đối tượng quản lý LLTP là pháp nhân thương mại phạm tội.
       -  Xem xét, thu hẹp đối tượng bị coi là có án tích, vì khoản 2 Điều 69 và Điều 107 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định 05 trường hợp người bị kết án không bị coi là có án tích.
       - Trao đổi với Bộ Tài chính để bổ sung đối tượng là học sinh trong độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi được miễn, giảm phí  cung cấp thông tin LLTP vào Thông tư số 244/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
       - Sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 04 về trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin LLTP cho phù hợp với các quy định của pháp luật và thực tế hiện nay.
       Ngoài ra, xem xét sửa đổi khoản 1 Điều 26 Luật LLTP là “STP nơi người bị kết án thường trú lập LLTP của người đó; trường hợp không xác định được nơi thường trú thì Tòa án xét xử gửi bản án về Trung tâm LLTP quốc gia lập, theo dõi  thay cho quy định hiện hành, kịp thời khắc phục khó khăn trong việc tra cứu, xác minh thông tin LLTP, từ đó dẫn đến tính thiếu chính xác trong các thông tin về án tích (trong thời gian vừa qua có một số trường hợp tra cứu của Trung tâm LLTP là không có án tích, nhưng STP lại được công dân cung thông tin về án tích…) và không đảm bảo thời hạn cấp phiếu cho công dân khi có yêu cầu. (STP Bà Rịa- Vũng Tàu)
                                                                                                                                    Hà My