Cục Hộ tịch – Quốc tịch – Chứng thực, Bộ Tư pháp đã có hướng dẫn để giải quyết những trường hợp nêu trên như sau:
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 32 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP thì “Trường hợp một hoặc hai bên nam, nữ không thể có mặt để nhận Giấy chứng nhận kết hôn thì theo đề nghị bằng văn bản của họ, Phòng Tư pháp gia hạn thời gian trao Giấy chứng nhận kết hôn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ký Giấy chứng nhận kết hôn. Hết 60 ngày mà hai bên nam, nữ không đến nhận Giấy chứng nhận kết hôn thì Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hủy Giấy chứng nhận kết hôn đã ký”.
Khoản 1 Điều 156 Bộ luật dân sự quy định: “Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây: Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu; Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép; Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình.”
Dịch bệnh Covid-19 là sự kiện khách quan, không thể lường trước được, hiện vẫn đang diễn biến phức tạp, chưa chấm dứt. Nhiều vùng, nhiều nơi vẫn đang thực hiện các biện pháp cách ly và các biện pháp y tế nghiêm ngặt, nên đề nghị Sở Tư pháp chỉ đạo Phòng Tư pháp cấp huyện vận dụng quy định nêu trên báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân trong thời gian xả ra dịch bệnh Covid-19 không tính vào thời gian gia hạn nhận Giấy chứng nhận kết hôn.
Minh Long