1. Quy định mới về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí thi hành án dân sự.
Ngày 24/10/2019, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 74/2019/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 9 Thông tư số 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí thi hành án dân sự (THADS), có hiệu lực từ ngày 10/12/2019.
Theo đó, Thông tư đã sửa đổi quy định về việc quản lý, sử dụng phí THADS trong trường hợp tổ chức thu phí thực hiện cơ chế tài chính theo quy định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc sử dụng biên chế và sử dụng kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước thì thực hiện quản lý, sử dụng tiền phí thi hành án dân sự như sau:
- Tổ chức thu phí được trích lại 55% số tiền phí thu được (trước đây là 65%) để trang trải cho các nội dung quy định tại Điều 5 Nghị định 120/2016/NĐ-CP ngày 23/08/2016 của Chính phủ.
Trường hợp cơ quan trại giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện thu tiền, tài sản thi hành án thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày cơ quan thi hành án dân sự thu phí thi hành án đối với số tiền, tài sản này, cơ quan thi hành án dân sự phải chuyển 55% tiền phí thi hành án dân sự thu được vào tài khoản của cơ quan trại giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện đã thu tiền, tài sản thi hành án.
- Tổ chức thu phí có trách nhiệm nộp 20% số tiền phí thu được vào tài khoản của Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp (hoặc Cục Thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng đối với tổ chức thu phí là cơ quan thi hành án quân khu và tương đương) tại Kho bạc Nhà nước. Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp (hoặc Cục Thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng) thực hiện điều hòa phí tiền phí cho các tổ chức thu phí ở những nơi tiền phí thu được không bảo đảm đủ các nội dung chi theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 120/2016/NĐ-CP ngày 23 tháng 8 năm 2016 của Chính phủ. Tuy nhiên, số chi hàng năm mà Tổng cục được điều hòa cho các tổ chức không được quá 15% (trước đây là 35%) tổng số tiền phí thi hành án do các đơn vị nộp về.
- Tổ chức thu phí có trách nhiệm nộp 25% (trước đây là 15%) số tiền phí thu được vào Ngân sách Nhà nước.
2. Sửa đổi, bổ sung quy định về đào tạo, sát hạch Giấy phép lái xe.
Đó là nội dung của Thông tư số 38/2019/TT-BGTVT ngày 08/10/2019 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT ngày 15/04/2017 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về đào tạo, sát hạch, cấp Giấy phép lái xe cơ giới đường bộ, có hiệu lực từ ngày 01/12/2019.
Theo đó, Điều 1 Thông tư số 38/2019/TT-BGTVT đã quy định 31 khoản để sửa đổi, bổ sung hàng loạt các các vấn đề về đào tạo, sát hạch, cấp Giấy phép lái xe. Trong đó, một số điểm đáng chú ý như sau:
- Từ ngày 01/01/2020, chương trình học giấy phép lái xe hạng B1, B2, C bắt buộc phải có thêm nội dung Phòng, chống tác hại của rượu, bia khi tham gia giao thông.
Cũng từ thời điểm này, trung tâm sát hạch lái xe phải lắp camera giám sát phòng sát hạch lý thuyết, sân sát hạch lái xe trong hình và truyền dữ liệu về Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Sở Giao thông Vận tải;
- Từ ngày 01/5/2020, các cơ sở đào tạo lái xe ứng dụng công nghệ để nhận dạng và theo dõi thời gian học lý thuyết môn học pháp luật giao thông đường bộ đối với học viên học lái xe ô tô (trừ hạng B1) và sử dụng phần mềm mô phỏng các tình huống giao thông để sát hạch lái xe từ ngày 01/01/2021.
- Từ ngày 01/6/2020, cấp Giấy phép lái xe mới có mã QR. Giấy phép lái xe đã được cấp trước ngày 01/12/2019 vẫn sẽ có giá trị sử dụng theo thời gian ghi trên giấy phép.
3. Thay đổi trong những quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
Để khắc phục những bất cập trong thời gian qua, ngày 14/11/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, có hiệu lực từ ngày 31/12/2019 và thay thế Nghị định số 96/2014/NĐ-CP.
Thay vì quy định một mức phạt chung “từ 80 đến 100 triệu đồng” cho mọi hành vi mua bán ngoại tệ như trước đây, Nghị định lần này đã quy định các mức phạt cụ thể căn cứ vào lượng ngoại tệ mua bán và tính chất của hành vi mua bán. Cụ thể:
- Phạt cảnh cáo đối với hành vi mua bán ngoại tệ giữa các cá nhân hoặc mua bán ngoại tệ tại tổ chức không được phép thu đổi ngoại tệ mà giá trị ngoại tệ mua bán dưới 1.000 đô la Mỹ (hoặc ngoại tệ khác có giá trị tương đương).
- Phạt tiền từ 10 đến 20 triệu đồng đối với hành vi mua bán ngoại tệ của các đối tượng trên, mà giá trị ngoại tệ mua bán từ 1.000 đô la Mỹ đến dưới 10.000 đô la Mỹ hoặc dưới 1.000 đô la Mỹ (hoặc ngoại tệ khác có giá trị tương đương) nhưng thuộc trường hợp tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần.
- Phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng nếu giá trị ngoại tệ mua bán từ 10.000 đô la Mỹ đến dưới 100.000 đô la Mỹ (hoặc ngoại tệ khác có giá trị tương đương).
- Phạt tiền từ 80 đến 100 triệu đồng nếu giá trị ngoại tệ mua bán từ 100.000 đô la Mỹ (hoặc ngoại tệ khác có giá trị tương đương) trở lên.
4. Bổ sung quyền được kê khai trực tuyến khi đề nghị cấp, đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân.
Đây là nội dung được bổ sung tại Thông tư số 48/2019/TT-BCA ngày 15/10/2019 của Bộ trưởng Bộ Công an sửa đổi, bổ sung một số điều củ
a Thông tư số 11/2016/TT-BCA ngày 04 tháng 3 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về trình tự cấp, đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân. Thông tư có hiệu lực kể từ ngày 01/12/2019.
Theo đó, Thông tư quy định rõ: Khi tiếp công dân đến làm thủ tục đề nghị cấp, đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân, cán bộ tiếp công dân yêu cầu người đến làm thủ tục viết Tờ khai căn cước công dân theo mẫu (nếu không kê khai trực tuyến) hoặc in Tờ khai căn cước công dân mà công dân đã kê khai trên trang thông tin điện tử dịch vụ công trực tuyến để công dân kiểm tra lại thông tin, ký, ghi rõ họ, chữ đệm và tên (trước đây, pháp luật quy định hình thức này).
Ngoài ra, Thông tư còn bổ sung quy định thu, hủy Chứng minh nhân dân đối với những trường hợp bị hỏng, bong, tróc, không rõ nét. Sửa đổi một số nội dung về thu nhận thông tin; xử lý dữ liệu
điện tử đề nghị cấp, đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân tại Trung tâm Căn cước công dân quốc gia;
Trả thẻ Căn cước công dân và kết quả giải quyết cấp, đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân.
5. Nhiều chính sách đối với cán bộ, công chức vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Ngày 08/10/2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 76/2019/NĐ-CP về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2019. Cụ thể, các đối tượng này được hưởng các chính sách sau:
- Được hưởng trợ cấp một lần bằng 10 tháng lương cơ sở khi nhận công tác lần đầu ở cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Trường hợp có gia đình đi cùng còn được trợ cấp một lần bằng 12 tháng lương cơ sở.
- Được hưởng phụ cấp thu hút bằng 70% mức lương hiện hưởng (theo bảng lương do cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước quy định) cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có) nếu có thời gian thực tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn không quá 05 năm.
- Nếu công tác từ đủ 05 năm trở lên, hàng tháng được hưởng phụ cấp lâu năm được tính theo mức lương cơ sở và thời gian làm việc thực tế: Nếu thời gian làm việc từ đủ 05 năm đến dưới 10 năm có hệ số phụ cấp là 0,5; Thời gian làm việc từ đủ 10 năm đến dưới 15 năm hưởng hệ số phụ cấp là 0,7; Thời gian làm việc trên 15 năm hưởng hệ số là 1.
- Nếu công tác từ đủ 10 năm trở lên tại vùng đặc biệt khó khăn, cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang khi chuyển công tác hoặc nghỉ hưu sẽ được hưởng trợ cấp một lần.Trong đó, mỗi năm công tác được tính bằng ½ mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp lãnh đạo cộng với phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có).
6. Sửa đổi một số quy định về quản lý, vận hành, kết nối, sử dụng và bảo đảm an toàn thông tin trên mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước.
Đó là nội dung của Thông tư số 12/2019/TT-BTTTT ngày 05/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 27/2017/TT-BTTTT ngày 20/10/2017 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông quy định về quản lý, vận hành, kết nối, sử dụng và bảo đảm an toàn thông tin trên mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/12/2019.
- Theo đó, Thông tư đã bổ sung 11 đối tượng sử dụng mạng TSLCD cấp I
[1]; bổ sung 12 đối tượng sử dụng mạng TSLCD cấp II
[2].
- Sửa đổi quy định về bảo đảm an toàn thông tin cho mạng TSLCD, cụ thể: Mạng TSLCD cấp I phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản cho hệ thống thông tin cấp độ 5 theo tiêu chuẩn TCVN 11930:2017; Mạng TSLCD cấp II phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản cho hệ thống thông tin cấp độ 3 trở lên theo tiêu chuẩn TCVN 11930:2017.
Bên cạnh đó, Thông tư cũng thay đổi thời hạn báo cáo về việc sử dụng mạng TSLCD của các cơ quan Đảng, Nhà nước tại Trung ương là “trước ngày 15/12 hàng năm” (quy định cũ là “trước ngày 01/12 hàng năm). Ngoài ra, Thông tư sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác liên quan đến việc quản lý, vận hành và bảo đảm an toàn thông tin./.
[1] Các Đảng bộ trực thuộc Trung ương; Các cơ quan trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương; Hội đồng Dân tộc; Các Ủy ban của Quốc hội; Các cơ quan của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Các tổ chức chính trị - xã hội tại Trung ương; Tòa án nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Kiểm toán nhà nước.
[2] Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh và cấp huyện; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Viện kiểm sát nhân dân cấp cao; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện; Kiểm toán nhà nước khu vực; Các đối tượng khác theo yêu cầu của các cơ quan Đảng và Nhà nước.
Thanh Lam