Những vướng mắc trong thực tiễn thi hành Luật đấu giá tài sản năm 2016
Tuy vậy, sau hơn 02 năm triển khai thực hiện, Luật ĐGTS cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ một số điểm bất cập nhất định, dẫn tới quá trình triển khai tại các địa phương gặp một số khó khăn, vướng mắc. Cụ thể:
Thứ nhất, về định nghĩa đối với tổ chức ĐGTS. Theo quy định tại khoản 12 Điều 5 Luật ĐGTS năm 2016 thì tổ chức ĐGTS bao gồm Trung tâm dịch vụ ĐGTS và doanh nghiệp ĐGTS. Luật ĐGTS cũng quy định chi nhánh doanh nghiệp ĐGTS là một đơn vị thực hiện chức năng ĐGTS, cũng phải đăng ký hoạt động và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động như doanh nghiệp ĐGTS. Trên thực tế, hầu hết các doanh nghiệp ĐGTS có quy mô lớn đều có một hoặc nhiều chi nhánh được thành lập tại tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc trên địa bàn tỉnh, thành phố khác. Tuy nhiên, Luật ĐGTS chưa ghi nhận chi nhánh doanh nghiệp ĐGTS là một tổ chức ĐGTS dẫn tới khi chi nhánh vi phạm hành chính trong lĩnh vực ĐGTS thì chưa có quy phạm để xử lý. Chẳng hạn như Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 67/2015/NĐ-CP về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp được áp dụng đối với tổ chức ĐGTS theo quy định tại Luật ĐGTS, do đó khi chi nhánh doanh nghiệp ĐGTS vi phạm thì có thể áp dụng quy định này để xử phạt hay không? Đây được xem là một lỗ hổng trong quy định của pháp luật về ĐGTS.
Thứ hai, mức xử phạt đối với tổ chức ĐGTS, đấu giá viên vi phạm theo Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ là tương đối nhẹ. Theo đó, các hình thức xử phạt chính trong lĩnh vực ĐGTS bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề đấu giá có thời hạn từ 6 tháng đến 9 tháng hoặc thời hạn 12 tháng và không áp dụng hình thức xử phạt bổ sung. Cùng với đó, các biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm: hủy bỏ giấy tờ giả, buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp, hủy bỏ kết quả ĐGTS. Thiết nghĩ, mức xử phạt này hiện đang xây dựng dựa trên mặt bằng chung về điều kiện kinh tế và mức xử phạt vi phạm hành chính khác, chứ chưa tính toán theo điều kiện kinh tế từng địa phương và giá trị của tài sản được đưa ra đấu giá. Bên cạnh đó, theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, thì hành vi thu lợi bất chính từ hoạt động ĐGTS có thể phải chịu mức phạt tù tối đa là 5 năm; có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự với những trường hợp vi phạm khá khó khăn, do thủ đoạn phạm tội của các đối tượng ngày càng tinh vi và mức xử phạt cũng không đáng kể so với nguồn lợi thu được trong những cuộc bán ĐGTS có giá trị lớn. Điều này dẫn đến việc đấu giá viên, các tổ chức ĐGTS có thể sẵn sàng vi phạm để đạt được lợi ích khác.
Thứ ba, Điều 40 Luật ĐGTS đã ghi nhận một hình thức đấu giá mới, đó là đấu giá trực tuyến. Hình thức này đã được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới và tại Việt Nam được kỳ vọng sẽ giúp hoạt động ĐGTS minh bạch, cạnh tranh hơn, hạn chế nhiều bất cập của phương thức đấu giá truyền thống. Tuy nhiên, với điều kiện trang thiết bị và hạ tầng công nghệ thông tin ở nước ta hiện nay thì hình thức đấu giá trực tuyến khó có thể áp dụng ngay được. Đồng thời, việc áp dụng hình thức đấu giá này có thể sẽ hạn chế đối với những người không am hiểu về phương thức, cách thức tham gia cũng như thiếu am hiểu về công nghệ. Việc trả giá trực tuyến, đôi khi chỉ nhầm một con số có thể dẫn đến kết quả không mong muốn, gây thiệt hại cho người tham gia đấu giá. Bên cạnh đó, việc không minh bạch trong kết quả đấu giá vẫn có thể xảy ra nếu tổ chức đấu giá thông đồng, móc nối để làm sai lệch kết quả đấu giá mà những người tham gia trả giá không có điều kiện để phát hiện ra được. Thực tế hiện nay, số lượng các sàn đấu giá trực tuyến tại Việt Nam còn rất hạn chế và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng còn e ngại trong việc cấp phép hoạt động cho hình thức đấu giá này.
Thứ tư, về giá khởi điểm tài sản đấu giá, khoản 2 Điều 8 Luật ĐGTS năm 2016 quy định một số loại tài sản đấu giá thì giá khởi điểm do tổ chức, cá nhân tự xác định hoặc ủy quyền cho tổ chức ĐGTS hoặc tổ chức, cá nhân khác xác định. Quy định này là không phù hợp với thực tế hiện nay, do việc “ủy quyền cho tổ chức ĐGTS” không đảm bảo nguyên tắc khách quan, minh bạch. Bởi lẽ, tổ chức đấu giá không thể vừa thực hiện chức năng định giá tài sản, vừa thực hiện chức năng ĐGTS được. Điều này rất dễ xảy ra tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, tùy tiện trong khâu định giá tài sản và khâu bán ĐGTS để trục lợi, gây thiệt hại cho người có tài sản ủy quyền bán đấu giá.
Thứ năm, theo Điều 3 Thông tư số 45/2017/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về khung thù lao dịch vụ ĐGTS thì thù lao dịch vụ ĐGTS bao gồm cả các chi phí hợp lý, hợp lệ mà người có tài sản đấu giá trả cho tổ chức ĐGTS để thực hiện ĐGTS theo quy định, đồng thời quy định mức tối đa thù lao dịch vụ ĐGTS của một hợp đồng dịch vụ ĐGTS là không quá 300 triệu đồng. Quy định như vậy là chưa hợp lý, bởi lẽ bản chất của thù lao dịch vụ là tiền công dịch vụ mà người có tài sản đấu giá phải trả cho tổ chức ĐGTS, còn các chi phí thực tế khác mà tổ chức ĐGTS đã bỏ ra để thực hiện việc bán đấu giá thì người có tài sản phải trả lại là điều đương nhiên. Việc gộp chung chi phí vào thù lao như hiện nay gây khó khăn cho việc phân định rạch ròi và trên thực tế đã xảy ra tình trạng tiền thù lao không đủ để trang trải chi phí đấu giá, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của tổ chức ĐGTS. Mặt khác, thù lao là khoản mà tổ chức ĐGTS có thể thoả thuận với người có tài sản dựa trên giá trị tài sản đã bán được, có những cuộc đấu giá mà giá bán tài sản tăng tới hàng nghìn tỷ đồng so với giá khởi điểm thì việc quy định mức thù lao tối đa không quá 300 triệu đồng như hiện nay chưa thể trở thành động lực cho các tổ chức ĐGTS.
Ngọc Ánh