MỘT SỐ QUY ĐỊNH CÓ HIỆU LỰC TỪ THÁNG 05 NĂM 2020
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Tin hoạt động

MỘT SỐ QUY ĐỊNH CÓ HIỆU LỰC TỪ THÁNG 05 NĂM 2020

1. Phương tiện giao thông vi phạm hành chính được giao cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản
Ngày 05/03/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 31/2020/NĐ-CP quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2013/NĐ-CP ngày 3/10/2013 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính. Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/05/2020.
          Nổi bật, Nghị định số 31/2020/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung quy định về giao phương tiện giao thông vi phạm hành chính cho người vi phạm giữ, bảo quản. Theo đó, đối với những phương tiện giao thông vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt thì người có thẩm quyền tạm giữ có thể giao cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản nếu có một trong các điều kiện dưới đây:
- Cá nhân vi phạm có nơi đăng ký thường trú hoặc có đăng ký tạm trú còn thời hạn hoặc có giấy xác nhận về nơi công tác của cơ quan, tổ chức nơi cá nhân vi phạm đang công tác; tổ chức vi phạm phải có địa chỉ hoạt động cụ thể, rõ ràng. Tổ chức, cá nhân vi phạm phải có nơi giữ, bảo quản phương tiện;
- Tổ chức, cá nhân vi phạm có khả năng tài chính đặt tiền bảo lãnh thì có thể được xem xét để giao giữ, bảo quản phương tiện.
Tuy nhiên, không được giao phương tiện cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản nếu thuộc một trong các trường hợp sau: (i) Phương tiện giao thông của vụ vi phạm là vật chứng của vụ án hình sự; (ii) Phương tiện giao thông được sử dụng để đua xe trái phép, chống người thi hành công vụ, gây rối trật tự công cộng hoặc gây tai nạn giao thông; (iii) Giấy chứng nhận đăng ký phương tiện bị làm giả, sửa chữa; (iv) Biển kiểm soát giả, phương tiện bị thay đổi trái phép số khung, số máy hoặc bị xóa số khung, số máy.
Ngoài ra, Nghị định còn sửa đổi, bổ sung một số quy định về nơi tạm giữ tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu; chế độ quản lý, bảo quản, giao, nhận tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu; đặt tiền bảo lãnh phương tiện giao thông bị tạm giữ theo thủ tục hành chính; trả lại tang vật, phương tiện bị tạm giữ hoặc chuyển tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu; xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hết thời hạn tạm giữ.
2. Sửa đổi, bổ sung nhiều hướng dẫn về Thi hành án dân sự
Ngày 17/03/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 33/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/05/2020. Theo đó, Nghị định số 33/2020/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung quan trọng của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, nổi bật:
Một số quy định về thỏa thuận thi hành án đã được sửa đổi theo hướng chặt chẽ hơn. Đối với trường hợp việc thỏa thuận đình chỉ thi hành án phải được sự đồng ý của người trúng đấu giá, người mua tài sản, người nhận tài sản, quy định mới không còn quy định chung thời điểm thỏa thuận là “sau khi tài sản đã được bán hoặc giao cho người khác nhận để thi hành án” mà đã xác định rõ hơn là: “sau thời điểm tài sản đã được bán đấu giá thành hoặc đã bán cho đồng sở hữu hoặc người được thi hành án đã đồng ý nhận tài sản để trừ vào tiền thi hành án mà chưa giao được tài sản cho họ”. Chấp hành viên cũng không được chứng kiến việc thỏa thuận thi hành án ngoài trụ sở cơ quan THADS.
Nghị định số 33/2020/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến việc ra quyết định thi hành án theo yêu cầu trong trường hợp nhiều người được nhận một tài sản cụ thể hoặc nhận chung một khoản tiền theo bản án, quyết định, nhưng chỉ có một hoặc một số người có yêu cầu thi hành án. Theo đó, Thủ trưởng cơ quan THADS không phải thực hiện trách nhiệm thông báo cho những người được thi hành án khác chưa có yêu cầu thi hành án mà sẽ ra quyết định thi hành án theo đúng nội dung của bản án, quyết định.
Trong việc áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án, Nghị định cũng hướng dẫn rõ: “Trường hợp đương sự, người đang quản lý, sử dụng, bảo quản tài sản không thực hiện theo yêu cầu của Chấp hành viên thì tùy từng trường hợp cụ thể mà Chấp hành viên tổ chức cưỡng chế mở khóa, mở gói; buộc ra khỏi nhà, công trình xây dựng, tài sản gắn liền với đất hoặc các biện pháp cần thiết khác để kiểm tra hiện trạng, thẩm định giá, bán đấu giá tài sản hoặc giao tài sản cho cá nhân, tổ chức khác bảo quản theo quy định của pháp luật.
Trường hợp sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế mà không thực hiện được việc giao bảo quản đối với tài sản theo quy định tại Điều 58 Luật Thi hành án dân sự thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã phối hợp, hỗ trợ bảo quản trong thời gian chưa xử lý được tài sản.”.
Nghị định còn rút ngắn thời hạn tiến hành thủ tục định giá tài sản từ “30 ngày làm việc” xuống còn “05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu định giá tài sản”. Đồng thời bổ sung điều kiện thực hiện định giá tài sản khi có thay đổi giá tài sản tại thời điểm thi hành án là: “Người phải thi hành án không tự nguyện giao tài sản hoặc không tự nguyện thanh toán giá trị tài sản theo nội dung bản án, quyết định khi đã hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự”. Bên cạnh đó, đã bổ sung nguyên tắc tổ chức đấu giá đối với trường hợp trong cùng một cuộc đấu giá mà có nhiều tài sản được đấu giá để thi hành án là “thực hiện việc đấu giá theo thứ tự từ tài sản có giá trị lớn nhất”. Thời hạn để người mua trúng tài sản đấu giá nộp tiền vào tài khoản cơ quan THADS cũng được kéo dài từ “ không quá 15 ngày” lên “ không quá 30 ngày kể từ ngày đấu giá thành”.
3. Người lao động Việt Nam không được đến lao động tại những khu vực đang có dịch bệnh đặc biệt nguy hiểm ở nước ngoài
Ngày 03/04/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 38/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/05/2020.
Theo đó, Nghị định đã quy định rõ về những khu vực và công việc mà người lao động Việt Nam không được đến làm việc tại nước ngoài, bao gồm: (i) Khu vực đang có chiến sự hoặc đang có nguy cơ xảy ra chiến sự, khu vực đang bị nhiễm xạ, khu vực bị nhiễm độc, khu vực đang có dịch bệnh đặc biệt nguy hiểm; (ii) Công việc massage làm việc tại các nhà hàng, khách sạn hoặc các trung tâm giải trí; (iii) Công việc phải tiếp xúc thường xuyên với chất nổ, chất độc hại trong luyện quặng kim loại màu (đồng, chì, thủy ngân, bạc, kẽm), tiếp xúc thường xuyên với mangan, điôxit thủy ngân; (iv) Công việc tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở, khai thác quặng phóng xạ các loại; (v) Công việc sản xuất, bao gói phải tiếp xúc thường xuyên với các hóa chất axit nitơric, natri sunfat, disunfua cacbon, các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ, diệt chuột, sát trùng, chống mối mọt có độc tính mạnh; (vi) Công việc săn bắt thú dữ, cá sấu, cá mập; (vii) Công việc thường xuyên ở nơi thiếu không khí, áp suất lớn (dưới lòng đất, lòng đại dương); (viii) Công việc liệm, mai táng tử thi, thiêu xác chết, bốc mồ mả.
4. Thủ tục hành chính trên môi trường điện tử có giá trị pháp lý như các hình thức khác theo quy định của pháp luật
Ngày 08/04/2020 Chính phủ ban hành Nghị định số 45/2020/NĐ-CP về thực hiện thủ tục hành chính (TTHC) trên môi trường điện tử, có hiệu lực từ ngày 22/05/2020. Tuy nhiên, Nghị định không điều chỉnh việc thực hiện TTHC theo cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN và kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Hoạt động này phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như: Việc thực hiện TTHC trên môi trường điện tử có giá trị pháp lý như các hình thức khác theo quy định của pháp luật; Tối đa hóa các bước thực hiện TTHC trên môi trường điện tử để tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức của tổ chức, cá nhân và cơ quan có thẩm quyền; Không yêu cầu tổ chức, cá nhân khai, nộp lại những dữ liệu mà cơ quan thực hiện TTHC đang quản lý hoặc đã được cơ quan nhà nước khác sẵn sàng chia sẻ.
Khi giải quyết TTHC trên môi trường điện tử, cán bộ, công chức, viên chức không được thực hiện những hành vi sau: (i) Cản trở việc lựa chọn phương thức thực hiện TTHC trên môi trường điện tử; (ii) Yêu cầu nộp văn bản giấy để xác minh, kiểm tra đối với thành phần hồ sơ đã được ký số và ghi nhận tính pháp lý; (iii) Can thiệp trái phép vào quá trình thực hiện TTHC trên môi trường điện tử (gồm: truyền, thu thập, xử lý, gửi hoặc thông báo kết quả xử lý hồ sơ, giao dịch thanh toán; can thiệp trái phép, làm sai lệch dữ liệu hồ sơ, giao dịch thanh toán, kết quả xử lý thủ tục hành chính; tiết lộ thông tin, sao chép dữ liệu trái thẩm quyền); (iv) Gian lận, mạo nhận, chiếm đoạt, sử dụng trái phép danh tính điện tử của tổ chức, cá nhân, cơ quan có thẩm quyền; (v) Các hành vi bị cấm khác của pháp luật có liên quan đến hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức trên môi trường điện tử.
Quy trình thực hiện TTHC cơ bản gồm 05 bước: (i) Đăng ký và đăng nhập tài khoản; (ii) Chuẩn bị và nộp hồ sơ điện tử thực hiện TTHC; (iii) Tiếp nhận hồ sơ. Cán bộ, công chức, viên chức sẽ kiểm tra tính chính xác của hồ sơ và chữ ký số, thực hiện thông báo cho người nộp về việc tiếp nhận hồ sơ chính thức hoặc yêu cầu sửa đổi, bổ sung (việc thông báo phải được thực hiện không muộn hơn 08 giờ làm việc kể từ khi hệ thống tiếp nhận); (iv) Thanh toán trực tuyến nghĩa vụ tài chính; (v) Trả kết quả giải quyết TTHC. Kết quả giải quyết TTHC bản điện tử của cơ quan có thẩm quyền có giá trị pháp lý như kết quả giải quyết TTHC bằng văn bản giấy.
5. Cơ quan nhà nước không được yêu cầu người dân, doanh nghiệp cung cấp những thông tin, dữ liệu đã được cơ quan nhà nước khác cung cấp hoặc sẵn sàng cung cấp thông qua kết nối, chia sẻ dữ liệu.
Ngày 09/04/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 47/2020/NĐ-CP về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước, có hiệu lực kể từ ngày 25/05/2020.
Tại Nghị định đã xác định các nguyên tắc chung về quản lý, chia sẻ và kết nối dữ liệu, trong đó có nguyên tắc: Cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm chia sẻ dữ liệu với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật; không cung cấp thông tin qua hình thức văn bản đối với thông tin đã được khai thác qua hình thức kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin; không được thu thập, tổ chức thu thập lại dữ liệu hoặc yêu cầu người dân, doanh nghiệp cung cấp thông tin, dữ liệu trong quá trình giải quyết các thủ tục hành chính nếu dữ liệu này đã được cơ quan nhà nước khác cung cấp, sẵn sàng cung cấp thông qua kết nối, chia sẻ dữ liệu, trừ trường hợp dữ liệu đó không bảo đảm yêu cầu về chất lượng theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên ngành hoặc pháp luật có quy định khác.
Việc chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước không làm ảnh hưởng tới quyền lợi và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan, không được xâm phạm quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Nghị định cũng quy định rõ 05 hành vi không được làm, bao gồm:
- Cản trở hoạt động kết nối, quyền khai thác và sử dụng dữ liệu hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
- Mua bán, trao đổi, chia sẻ dữ liệu trái quy định của pháp luật.
- Vi phạm các quy định về quyền sở hữu trí tuệ, quyền bảo vệ thông tin cá nhân khi kết nối, chia sẻ dữ liệu.
- Làm sai lệch dữ liệu trong quá trình lưu chuyển dữ liệu từ cơ quan cung cấp dữ liệu tới cơ quan khai thác dữ liệu.
- Phá hoại cơ sở hạ tầng thông tin, làm gián đoạn việc kết nối, chia sẻ dữ liệu.
6. Phân loại khu vực thể chế áp dụng trong thống kê Việt Nam
Nhằm đảm bảo tính khả thi trong quá trình thu thập, tính toán các chỉ tiêu thống kê và phù hợp với thực tiễn công tác thống kê cũng như bảo đảm so sánh quốc tế, ngày 23/03/2020, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư đã ban hành Thông tư số 02/2020/TT-BKHĐT quy định về phân loại khu vực thể chế áp dụng trong thống kê Việt Nam. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/05/2020.
Thông tư đã đưa ra khái niệm “đơn vị thể chế áp dụng trong thống kê”, “khu vực thể chế áp dụng trong thống kê” và xác định trong thống kê của Việt Nam có 06 khu vực thể chế, bao gồm:
(i) Khu vực thể chế phi tài chính: Bao gồm tất cả các doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập và tổ chức khác (bao gồm cả các đơn vị không vì lợi) thường trú tham gia vào các hoạt động sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ phi tài chính để mua bán trên thị trường.
          (ii) Khu vực thể chế tài chính: Bao gồm tất cả các doanh nghiệp và đơn vị tương tự doanh nghiệp thường trú tham gia chủ yếu vào việc cung cấp dịch vụ tài chính, bao gồm cả dịch vụ bảo hiểm và quỹ hưu trí tự nguyện cho các đơn vị thể chế khác.
          (iii) Khu vực thể chế Nhà nước: Khu vực này bao gồm tất cả các đơn vị thuộc cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp và đoàn thể khác, các đơn vị sự nghiệp công lập không vì lợi nhuận, phi thị trường và các quỹ an sinh xã hội.
 (iv) Khu vực thể chế hộ gia đình: Hộ gia đình là một người hoặc nhóm người có cùng nơi sinh sống, đóng góp một phần hoặc toàn bộ thu nhập và tài sản của họ vào một ngân sách chung và tiêu dùng chung các loại sản phẩm vật chất và dịch vụ nhất định, chủ yếu là nhà ở và lương thực, thực phẩm. Ngoài các loại hộ gia đình truyền thống (hộ gia đình cùng huyết thống, hôn nhân,...) còn có các hộ gia đình tập thể (còn gọi là hộ gia đình phi truyền thống), những hộ này bao gồm những nhóm người cùng sinh sống trong một thời gian dài ở nhà dưỡng lão, cơ sở phục hồi chức năng, tu viện, nhà tù, trại giam, trại phục hồi nhân phẩm...
Hộ gia đình bao gồm hộ gia đình sản xuất và hộ gia đình tiêu dùng.
(v) Khu vực thể chế không vì lợi phục vụ hộ gia đình: Các đơn vị thuộc khu vực không vì lợi phục vụ hộ gia đình (NPISHs) là các đơn vị thường trú không vì lợi, phi thị trường không chịu sự kiểm soát của Nhà nước. Tất cả các đơn vị này cung cấp hàng hóa và dịch vụ miễn phí hoặc ở mức giá không có ý nghĩa về mặt kinh tế. Phần lớn những hàng hóa và dịch vụ được cung cấp cho tiêu dùng cá nhân nhưng các đơn vị không vì lợi cũng có thể cung cấp các dịch vụ chung như trung tâm tình nguyện, đơn vị viện trợ, cứu trợ, cơ sở từ thiện, tôn giáo, tín ngưỡng...
(vi) Khu vực thể chế không thường trú: Khu vực này bao gồm tất cả các đơn vị thể chế không thường trú tham gia giao dịch với các đơn vị thường trú hoặc có các mối liên hệ khác về kinh tế với các đơn vị thường trú như các tổ chức quốc tế, đại sứ quán, lãnh sứ quán của nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.
7. Công chức làm công tác quốc tịch phải tự mình ghi vào Sổ quốc tịch.
Đây là một trong những nguyên tắc sử dụng Sổ quốc tịch được quy định tại Thông tư số 02/2020/TT-BTP ngày 08/04/2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về ban hành, hướng dẫn sử dụng, quản lý mẫu sổ quốc tịch và mẫu giấy tờ về quốc tịch, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/05/2020. Theo đó, Thông tư đã quy định những nguyên tắc cơ bản trong việc sử dụng sổ quốc tịch và mẫu giấy tờ về quốc tịch như sau:
- Thứ nhất, trong việc sử dụng sổ quốc tịch:
(i) Công chức làm công tác quốc tịch phải tự mình ghi vào Sổ quốc tịch. Nội dung ghi phải chính xác; chữ viết phải rõ ràng, đủ nét, không viết tắt, không tẩy xóa; không sử dụng nhiều loại màu mực trong một sổ, không dùng mực đỏ.
Trường hợp ứng dụng công nghệ thông tin để in Sổ quốc tịch trên máy thì phải in bằng loại mực tốt, màu đen, không bị nhòe, mất nét hoặc phai màu.
Trong trường hợp thụ lý, giải quyết các việc về quốc tịch theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông thì công chức làm công tác tiếp nhận hồ sơ tại bộ phận “Một cửa” là người ghi vào Sổ thụ lý hồ sơ các việc về quốc tịch.
(ii) Sổ quốc tịch phải được đóng dấu giáp lai từ trang đầu đến trang cuối cùng ngay từ khi mở sổ. Sổ được ghi liên tiếp theo thứ tự từng trang, không được bỏ trống. Trường hợp ứng dụng công nghệ thông tin thì định kỳ hàng năm phải in và đóng thành sổ, đóng dấu giáp lai từ trang đầu đến trang cuối.
(iii) Sổ thụ lý hồ sơ các việc về quốc tịch (Mẫu TP/QT-2020-STLHSQT) được sử dụng để ghi chung các việc xin nhập, xin trở lại, xin thôi quốc tịch Việt Nam.
- Thứ hai, trong việc sử dụng mẫu giấy tờ về quốc tịch:
(i) Công chức làm công tác quốc tịch phải tự mình ghi đầy đủ thông tin vào Phiếu tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả hồ sơ, Trích lục đăng ký xác định có quốc tịch Việt Nam, Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam, Giấy xác nhận là người gốc Việt Nam.
Trong trường hợp thụ lý, giải quyết các việc về quốc tịch theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông thì công chức làm công tác tiếp nhận hồ sơ tại bộ phận “Một cửa” ghi vào Phiếu tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả hồ sơ.
(ii) Tùy theo từng loại việc, người có yêu cầu giải quyết các việc về quốc tịch phải điền đầy đủ, chính xác các thông tin theo các cột, mục trong mẫu Đơn, Bản khai lý lịch, Tờ khai.
(iii) Người có yêu cầu phải chịu trách nhiệm về những thông tin đã ghi trong mẫu Đơn, Bản khai lý lịch, Tờ khai; trường hợp cố ý khai sai lệch thông tin thì tùy theo mức độ, sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật./.
                                                                                                                                                  Thanh Lam