Khó khăn về kho vật chứng của các cơ quan Thi hành án dân sự khu vực phía Nam
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Tin hoạt động

Khó khăn về kho vật chứng của các cơ quan Thi hành án dân sự khu vực phía Nam

Với vai trò là nơi lưu giữ vật chứng, tài liệu của các vụ án phục vụ cho các hoạt động tố tụng, công tác bảo quản vật chứng và quản lý kho vật chứng có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, góp phần đảm bảo thực thi pháp luật hiệu quả, toàn diện.

Vì vậy, thời gian qua, kho vật chứng trong thi hành án dân sự (THADS) đã được Nhà nước quan tâm hoàn thiện về thể chế, đầu tư cơ sở vật chất và nhân lực. Tuy nhiên các cơ quan THADS trong cả nước nói chung cũng như khu vực phía Nam nói riêng vẫn gặp phải không ít khó khăn.
          Trước hết, khó khăn lớn nhất đối với các cơ quan THADS khu vực phía Nam hiện nay là thiếu kho vật chứng. Theo báo cáo của Cục Công tác phía Nam – Bộ Tư pháp được trình bày tại Tọa đàm Thực trạng về công tác quản lý tài chính và kho vật chứng tại các cơ quan THADS khu vực phía Nam (tổ chức ngày 30/06/2020), chỉ có 103/286 cơ quan THADS trong khu vực được đầu tư xây dựng kho vật chứng, đạt tỷ lệ 36%. Còn 182 cơ quan THADS chưa đầu tư xây dựng, phải sử dụng kho tạm, thuê nhà dân, gửi nhờ kho của cơ quan Công an, Sở Tài chính hoặc sử dụng phòng làm việc để bảo quản vật chứng. Trong khi đó, việc thuê kho cũng gặp nhiều khó khăn như: thuê nhà ở của người dân nên không đảm bảo về công năng và an toàn bảo quản vật chứng, hoặc ở xa trụ sở cơ quan THADS; có thể phát sinh nhiều chi phí khác như chi phí thuê mặt bằng, sửa chữa, cải tạo kho, thuê bảo vệ kho, trong khi nguồn ngân sách còn hạn hẹp.
          Thứ hai, chất lượng kho vật chứng chưa đảm bảo. Theo quy định của Thông tư số 01/2017/TT-BTP ngày 23/01/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, kho vật chứng phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật, yêu cầu về an ninh, an toàn, vệ sinh môi trường, phải có trang thiết bị để kiểm tra tang tài vật. Song thực tế, nhiều kho vật chứng của cơ quan THADS được xây dựng trong những năm 1990 - 2000, diện tích nhỏ hẹp và xuống cấp, chưa đảm bảo các yêu cầu theo quy định nên chưa đáp ứng việc lưu giữ, bảo quản vật chứng, đặc biệt là những vật chứng có yêu cầu bảo quản cao (heroin, xăng dầu …). Đối với vật chứng có kích thước lớn (gỗ, xà lan, tàu thuyền …), hầu hết các địa phương phải thuê bến bãi hoặc gửi nhờ kho của cơ quan Công an, dẫn đến khó khăn trong việc quản lý.
Thứ ba, vấn đề nhân lực đảm nhận công việc liên quan đến kho vật chứng. Theo quy định của pháp luật, Thủ kho vật chứng là biên chế được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý kho vật chứng. Nhưng hiện nay, đa số đơn vị không bố trí được Thủ kho chuyên trách mà phải kiêm nhiệm, nên tạo áp lực lớn đối với các công chức. Hơn nữa, các công chức kiêm nhiệm thủ kho chưa được qua đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ quản lý kho vật chứng nên việc sắp xếp, quản lý vật chứng chưa khoa học, không mang tính chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, việc tuyển dụng chức danh Thủ kho cũng gặp khó khăn, chưa thu hút được nhiều người vào làm việc.
Thứ tư, tại nhiều địa phương, công tác phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan chức năng (Công an, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân) trong xử lý vật chứng tồn đọng chưa có hiệu quả: Bản án, quyết định của Tòa án không nêu rõ việc xử lý vật chứng; chậm giải thích Bản án, quyết định; việc chuyển giao Bản án, quyết định, vật chứng không đảm bảo thời hạn quy định; thời gian xử lý vật chứng kéo dài … Dẫn đến tình trạng vật chứng cần phải xử lý tồn kho lớn, gây khó khăn cho công tác bảo quản vật chứng.
          Trong bối cảnh vụ việc THADS gia tăng, số lượng vật chứng ngày càng nhiều, những vấn đề nêu trên đã ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý vật chứng và hiệu quả công tác THADS; việc tiếp nhận, quản lý, bảo quản, xử lý vật chứng gặp khó khăn, tiềm ẩn nhiều rủi ro trong bảo quản tang tài vật (mất mát, hư hỏng, nguy cơ cháy nổ…). Vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác quản lý kho vật chứng, thời gian tới cần tiếp tục ưu tiên nguồn lực tài chính đầu tư xây dựng kho vật chứng tùy theo tình hình thực tế của địa phương; nâng cấp, cải tạo các kho vật chứng bị xuống cấp trầm trọng; thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ cho công chức làm công tác thủ kho, quản lý kho.
          Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành Trung ương cần nghiên cứu mô hình xây dựng cụm kho liên cơ quan giữa các cơ quan tố tụng và cơ quan xử lý vi phạm hành chính tại địa phương. Biện pháp này có thể giúp tập trung nguồn lực tài chính để xây dựng kho; giảm thời gian chi phí vận chuyển vật chứng, tài sản, chi phí quản lý, vận hành kho; tạo thuận lợi hơn trong việc thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến giao nhận vật chứng giữa các cơ quan. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, xử lý vật chứng./.
                                                                                                                                                       Thanh Lam