Bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là những chính sách an sinh xã hội quan trọng của Đảng và nhà nước ta, là cơ chế tài chính trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, vì mục tiêu công bằng, hiệu quả và phát triển trong lĩnh vực chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn quá trình thực hiện pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN vẫn còn một số tồn tại, bất cập trong quy định và trong tổ chức thực hiện. Các văn bản hướng dẫn còn thiếu cụ thể, thiếu đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác, gây ra những khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý nhà nước cũng như tổ chức thực thi pháp luật.
Lĩnh vực Bảo hiểm xã hội
Việc phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện gặp khó khăn, số lượng người tham gia chưa tương xứng với tiềm năng. Nguyên nhân của tình trạng trên là do chính sách BHXH tự nguyện chưa hấp dẫn. Cụ thể, người tham gia BHXH tự nguyện chỉ được hưởng 2 chế độ là hưu trí, tử tuất, không được hưởng chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trong khi tỉ lệ mức đóng BHXH tự nguyện còn khá cao (22%). Mặt khác, đến nay Bộ Tài chính vẫn chưa có hướng dẫn về việc hỗ trợ mức đóng BHXH tự nguyện cho người tham gia, đồng thời quy định mức hỗ trợ đối tượng này trên cơ sở mức thu nhập chuẩn nghèo nông thôn chưa gắn với thực tế mức chuẩn nghèo ở mỗi địa phương cũng khiến chính sách kém hấp dẫn đối với người dân.
Tình trạng trốn đóng, chậm đóng, nợ đọng kéo dài còn xảy ra ở nhiều doanh nghiệp, số doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động có chiều hướng gia tăng, việc xử lý nợ BHXH, BHYT kéo dài đối với các doanh nghiệp phá sản, giải thể, chủ bỏ trốn… vẫn chưa có quy định, hướng dẫn giải quyết của pháp luật. Vẫn còn tình trạng người lao động không trung thực trong quá trình báo tìm việc làm nên còn nhiều trường hợp hưởng trợ cấp thất nghiệp sai quy định phải thu hồi…
Đối với lao động nữ nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở y tế khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý, Luật BHXH năm 2014 quy định chi tiết số ngày nghỉ tối đa tương ứng với số tuần tuổi thai. Nhưng trên thực tế, rất khó xác định tuần tuổi thai đối với trường hợp thai ngoài tử cung (phá thai bệnh lý). Vì vậy, một số cơ sở y tế không ghi tuần tuổi thai, dẫn đến khó giải quyết chế độ thai sản.
Về mức lương tối thiểu vùng, Nghị định 80/2019/NĐ-CP ngày 15/11/2019 của Chính phủ về mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động năm 2020 quy định, mức lương trả cho người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng đối với người làm công việc giản đơn nhất; doanh nghiệp phải trả cao hơn ít nhất 7% mức lương tối thiểu vùng đối với người làm công việc đòi hỏi đã qua học nghề, đào tạo nghề. Nhưng hiện nay, chưa có văn bản quy định danh mục ngành, nghề sử dụng lao động phải qua đào tạo, dẫn đến tình trạng mỗi doanh nghiệp hiểu một cách và trả bằng mức lương tối thiểu vùng cho người lao động.
Thời gian qua, tổ chức công đoàn chưa đề nghị tòa án thụ lý hồ sơ về nợ BHXH do các cơ quan BHXH tỉnh chuyển sang. Đó là vì, tuy pháp luật quy định tổ chức công đoàn có quyền khởi kiện hành vi vi phạm pháp luật về BHXH gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, nhưng trước khi khởi kiện, tổ chức này phải lấy được đầy đủ chữ ký của những người lao động ủy quyền. Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp sử dụng từ vài trăm đến hàng ngàn lao động, giả sử tranh chấp về BHXH xảy ra tại những doanh nghiệp này, tổ chức công đoàn rất khó lấy chữ ký của từng lao động để đại diện khởi kiện.
Hệ thống dữ liệu của cơ quan HBHXH chưa liên thông nên gây khó khăn cho quá trình hoạt động. Cụ thể, chưa thế truy xuất dữ liệu của BHXH các tỉnh thành để tìm dữ liệu tham gia BHXH của một người khi có hai sổ BHXH để xã định người lao động đã hưởng BHTN hay chưa để ngăn chặn tình trạng trục lợi BHXH.
Việc giải quyết chế độ ốm đau, thai sản và trợ cấp dững sức phục hồi sức khỏe thông qua giao dịch điện tử, nhưng các chứng từ như giấy ra viện, giấy chứng sinh thì người lao động phải chuyển bằng đường bưu điện đến các cơ quan BHXH. Như vậy người lao động phải thực hiện hai lần cho một thủ tục.
Việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi tỏng lĩnh vực BHXH còn nhiều bất cập. Doanh nghiệp do kinh doanh thua lỗ dẫn đến mất khả năng chi trả, chậm đóng BHXH. Ngoài việc bị xử phạt vi phạm hành chính, doanh nghiệp còn phải thanh toán tiền nợ BHXH, tiền lãi do nợ BHXH phát sinh, dẫn đến tình trạng nợ chồng nợ, khó kịp thời chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. VIệc cưỡng chế để thu tiền xử phạt bằng hình thức khấu trừ trong tài khoản cũng gặp khó khăn do số tiền còn lại trong tài khoản của doanh nghiệp không đủ hoặc doanh nghiệp không cung cấp thông tin số tài khoản, tổ chức tín dụng.
Một trong những nội dung quan trọng được Bộ luật Hình sự sửa đổi (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) bổ sung mới là nhóm tội phạm trong lĩnh vực bảo hiểm, gồm: tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Ðiều 213); tội gian lận BHXH, BHTN (Ðiều 214); tội gian lận BHYT (Ðiều 215) và tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động (Ðiều 216). Tuy nhiên, sau hơn một năm có hiệu lực, việc triển khai các điều luật này trong thực tế còn nhiều vướng mắc. Việc cơ quan BHXH chuyển hồ sơ các doanh nghiệp nợ đọng, chây ỳ sang cơ quan công an đề nghị khởi tố hình sự chỉ là biện pháp mạnh "cuối cùng". Bởi trên thực tế, đến thời điểm này, số vụ việc được xử lý theo các điều luật 213, 214, 215, 216 Bộ luật Hình sự còn quá ít và chưa kịp thời. Hiện, chưa có văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền để chuyển hồ sơ có dấu hiệu tội phạm về BHXH, BHYT, BHTN sang cơ quan điều tra.
Lĩnh vực bảo hiểm y tế
Ngày 13/6/2014, Quốc hội ban hành Luật số 46/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về BHYT và tác động tích cực đến quá trình tổ chức thực hiện chính sách BHYT. Với định hướng thực hiện bao phủ chăm sóc sức khoẻ và BHYT toàn dân, mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khoẻ; được bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tham gia bảo hiểm y tế và thụ hưởng các dịch vụ y tế. Chất lượng khám chữa bệnh BHYT ngày càng cải thiện, người dân được tiếp cận dịch vụ kỹ thuật y tế hiện đại, nhiều thuốc mới, hiệu quả cao, giúp nhiều người vượt qua ốm đau và các căn bệnh hiểm nghèo. Quỹ BHYT đang trở thành nguồn tài chính cơ bản phục vụ cho hoạt động của bệnh viện, trung tâm y tế, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Chính sách BHYT đã bảo đảm nguyên tắc chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHYT. Tuy nhiên pháp luật về BHYT còn một số bất cập sau:
Mức dự toán hàng năm được giao cho cơ sở khám chữa bệnh chưa phù hợp, không khuyến khích cơ sở khám chữa bệnh phát triển kỹ thuật mới, sử dụng kỹ thuật cao, phấn đấu thu hút người bệnh đến khám nhiều hơn. Vì theo quy trình, khi vượt dự toán được giao thì phải giải trình gửi về BHXH Việt Nam xem xét. Như vậy, phải chờ một thời gian dài mới được cấp bổ sung phần kinh phí mà cơ sở đã chi để điều trị cho người bệnh, dẫn đến thiếu kinh phí để hoạt động.
Về gói dịch vụ y tế cơ bản cho tuyến y tế cơ sở, Phụ lục II Thông tư số 39/2017/TT-BYT ngày 18/10/2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc quy định gói dịch vụ y tế cơ bản cho tuyến y tế cơ sở nêu rõ 23 nhóm thuốc với 241 thuốc, nhưng Thông tư số 30/2018/TT-BYT ngày 28/3/2018 của Bộ trưởng Bộ Y tế về danh mục và tỷ lệ, điều kiện thanh toán đối với thuốc hóa dược, sinh phẩm, thuốc phóng xạ và chất đánh dấu thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia BHYT lại không cho sử dụng nhóm thuốc hạ lipid, hạ đường huyết, dẫn tới khó khăn khi thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT tại trạm y tế.
Phần mềm khám chữa bệnh BHYT (phần mềm HIS) tuyến xã còn chậm, việc in sổ A1 còn vướng mắc đối với trường hợp bệnh án ngoại trú, vì lúc xuất sổ A1 từ phần mềm là ngày cuối của đợt điều trị, không có những thông tin, chỉ định, thực hiện thủ thuật của những ngày điều trị trước đó.
Thông tư số 39/2018/TT-BYT ngày 30/11/2018 của Bộ Y tế quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trong toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế trong một số trường hợp đã cứng nhắc ấn định số lượt khám, bàn khám; định mức siêu âm, X-quang, CT Scanner; tính định mức... Ví dụ, với các bàn khám khám trên 65 lượt khám/ngày, cơ quan BHXH chỉ thanh toán bằng 50% mức giá khám bệnh từ lượt khám thứ 66 trở lên của bàn khám đó. Trong thời gian tối đa 1 quý, cơ sở y tế vẫn còn có bàn khám khám trên 65 lượt/ngày thì cơ quan BHXH không thanh toán tiền khám bệnh từ lượt khám thứ 66 trở lên của bàn khám đó. Trên thực tế, cơ sở y tế không thể từ chối khám, chữa bệnh từ lượt thứ 66/ngày. Thông tư số 39/2018/TT-BYT cũng quy định máy móc khi áp định mức tính giá (số ca/máy/ngày làm việc 8 giờ) của dịch vụ siêu âm; chụp X-quang thường, X-quang số hóa, CT Scanner, cộng hưởng từ (MRI)...
Một số cơ sở khám chữa bệnh có những biểu hiện trục lợi Quỹ BHYT như: chỉ định xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh quá mức cần thiết, không đúng quy trình kỹ thuật, áp sai giá dịch vụ, tách dịch vụ để thanh toán, đề nghị trùng lặp, kéo dài ngày nằm viện, bác sỹ thực hiện các dịch vụ y tế không đúng phạm vi chuyên môn… làm ảnh hướng đến quyền lợi của người bệnh và lãng phí Quỹ BHYT.
Các quy định liên quan đến giám định và thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT chưa chặt chẽ và thoonsgnhaast dẫn đến nhiều trường hợp hợp đồng khám chữa bệnh BHYT đã được thanh lý, chi phí đã được giám định nhưng khi thanh tra BHYT vào cơ sở khám chữa bệnh vẫn bị xuất toán.
Bên cạnh đó, việc thanh toán BHYT khi điều trị nội trú ban ngày tại cơ sở khám, chữa bệnh y học cổ truyền cũng gặp khó khăn, mặc dù đã có quy định tại Thông tư số 18/2016/TT-BYT ngày 30/06/2016 Quy định Danh mục kỹ thuật, danh mục vật tư y tế dùng trong phục hồi chức năng và việc chi trả chi phí phục hồi chức năng ban ngày thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT và Thông tư số 01/2019/TT-BYT của Bộ Y tế quy định việc điều trị nội trú ban ngày tại cơ sở khám, chữa bệnh y học cổ truyền đã có hiệu lực từ ngày 15/4/2019.
Lĩnh vực bảo hiểm thất nghiệp
Hệ thống văn bản hướng dẫn BHTN đã tương đối hoàn thiện nên ít xảy ra vướng mắc phát sinh trong việc tổ chức, thực hiện. Các cơ quan từ Trung ương đến địa phương đã nhận thức đúng vai trò, vị trí của mình trong việc thực hiện BHTN đặc biệt là công tác tư vấn, giới thiệu việc làm và hỗ trợ học nghề, có sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa các ngành, các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, tập huấn, đào tạo cán bộ, hướng dẫn thực hiện, chia sẻ thông tin, giải quyết các vướng mắc trong thực tế phát sinh. Một số trung tâm dịch vụ việc làm đã rất tích cực trong việc tìm kiếm nguồn cầu lao động, tìm hiểu về nhu cầu của người sử dụng lao động để có những tư vấn việc làm phù hợp với người lao động: trực tiếp liên hệ với các doanh nghiệp trong và ngoài địa bàn nhằm thu thập nhiều thông tin về tuyển dụng, việc làm trống của của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách về BHTN cũng bộc lộ một số bất cập sau:
Người lao động đến nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp phần lớn là lao động phổ thông nên chưa nhận thức rõ về quyền và nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện chính sách BHTN, không trung thực trong việc khai báo tình trạng việc làm do lo sợ bị mất quyền lợi hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ quyền lợi và trách nhiệm của mình về BHTN, do đó, còn xảy ra tình trạng doanh nghiệp chậm đóng và nợ đọng BHXH, BHTN nên không chốt được sổ BHXH gây ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của người lao động, ảnh hưởng đến công tác thực hiện chính sách BHTN. Ngoài ra, phần lớn các doanh nghiệp chưa thực hiện thông báo định kỳ về tình hình biến động lao động theo quy định tại Nghị định 28/2015/NĐ-CP ngày 12/03/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về BHTN nên không cập nhật được số liệu về tình hình lao động tại địa phương.
Phần mềm thực hiện BHTN theo quy định của Luật Việc làm chưa được nâng cấp, hoàn thiện nên một số Trung tâm cập nhật các thông tin của người lao động trong quá trình hưởng các chế độ BHTN thủ công, do đó, dễ gây nhầm lẫn và mất nhiều thời gian trong quá trình tổ chức thực hiện.
Công tác tổ chức cán bộ tại một số Trung tâm dịch vụ việc làm còn nhiều khó khăn do hiện nay mới chỉ có định suất lao động mà chưa được biên chế chính thức nên cán bộ Trung tâm thường xuyên có sự thay đổi, ảnh hưởng đến công việc chuyên môn.
Một số giải pháp trong thời gian tới
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN, tổ chức rà soát, phát hiện, sửa đổi và bổ sung kịp thời các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách bảo hiểm như: quản lý nợ và các giải pháp xử lý nợ BHXH, BHYT, BHTN đối với doanh nghiệp nợ kéo dài, số tiền nợ lớn, các doanh nghiệp đã giải thể, phá sản, chủ bỏ trốn còn nợ tiền bảo hiểm, các doanh nghiệp đã khởi kiện, thi hành án nhưng không có khả năng thanh toán; Các biện pháp cưỡng chế trích từ tài khoản tiền gửi của người sử dụng lao động nộp số tiền chưa đóng, chậm đóng và lãi; Tháo gỡ vướng mắc khi tổ chức công đoàn khởi kiện các đơn vị nợ BHXH, BHYT, BHTN.
Sớm ban hành Thông tư hướng dẫn một số điều Nghị định số 166/2016/NĐ-CP ngày 24/12/2016 của Chính phủ quy định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện các thủ tục hành chính về bảo hiểm.
Thứ hai: Tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về BHXH, BHYT, BHTN với nhiều hình thức phong phú và phù hợp cho từng đối tượng là người sử dụng lao động và người lao động, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm và thường xuyên tổ chức các cuộc tuyên truyền, đối thoại trực tiếp với doanh nghiệp và người lao động.
Thứ ba: Tổ chức thực hiện đúng, đầy đủ các quy định hiện hành về BHXH, BHYT, BHTN, như: rà soát các đối tượng tham gia bảo hiểm; thực hiện việc thông báo biến động lao động của các doanh nghiệp; thực hiện việc thông báo hằng năm cho từng người lao động về việc đóng bảo hiểm; chốt sổ bảo hiểm; tiếp nhận và giải quyết hưởng bảo hiểm theo phương châm 3 đúng “đúng đối tượng, đúng chế độ và đúng thời hạn”; tăng cường các giải pháp tích cực để tư vấn, giới thiệu việc làm và hỗ trợ học nghề cho người thất nghiệp ngay từ khi người lao động chưa nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp; tổ chức cuộc khảo sát, điều tra về nhu cầu học nghề của người thất nghiệp nhằm đưa ra các giải pháp để tăng cường công tác hỗ trợ học nghề. Rà soát các đơn vị thực hiện tốt công tác tư vấn giới thiệu việc làm và dạy nghề, tổ chức khảo sát nghiên cứu mô hình để nhân rộng trên toàn quốc; thúc đẩy công tác thông tin thị trường lao động, chú trọng khai thác vị trí việc làm trống để hỗ trợ cho người thất nghiệp; đồng thời có các biện pháp để hạn chế việc sa thải lao động của các doanh nghiệp; phát hiện các sai phạm, trục lợi về BHTN để có biện pháp ngăn chặn, xử lý.
Thứ tư: Tiếp tục cải tiến quy trình thực hiện các chế độ BHXH, BHYT, BHTN và xây dựng các mô hình chuẩn hoạt động của trung tâm dịch vụ việc làm, để thực hiện tốt các nhiệm vụ của Trung tâm về bảo hiểm thất nghiệp, tư vấn, thông tin thị trường lao động, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động và dạy nghề. Thực hiện hoàn thiện phần mềm về BHXH, BHYT, BHTN tại các địa phương và kết nối dữ với BHXH tỉnh. Tiếp tục nâng cao năng lực cán bộ làm công tác BHXH, BHYT, BHTN để đảm bảo thực hiện các chế độ bảo hiểm cho người thụ hưởng theo đúng quy định.
Thứ năm: Sớm triển khai Đề án “ủy thác thu BHXH” nhằm đa dạng hóa các phương thức thu, nộp BHXH, góp phần cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý, đảm bảo công tác thu nộp BHXH đúng, đủ, kịp thời, minh bạch, giảm thiểu tình trạng trốn đóng, chậm đóng, đóng chưa đầy đủ số người thuộc diện phải tham gia BHXH.
Thứ sáu: Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về BHXH, BHYT, BHTN nhằm phát hiện những vướng mắc, những vi phạm hay trục lợi bảo hiểm để kịp thời xử lý để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động khi tham gia và thụ hưởng chế độ bảo hiểm./.
Hà My