GIAO VÀ THỰC HIỆN CHỈ TIÊU THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

GIAO VÀ THỰC HIỆN CHỈ TIÊU THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

 

Hoạt động nghiệp vụ thi hành án dân sự (THADS) bao gồm nhiều công việc phát sinh từ khi nhận được Bản án, Quyết định của Tòa án (sau đây gọi tắt là Bản án). Kết quả thi hành án chỉ đạt được khi các bên đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan thực hiện xong các quyền và nghĩa vụ theo nội dung quyết định Bản án. Chỉ khi Bản án đã được thực hiện trên thực tế, thì công bằng xã hội và tính nghiêm minh của pháp luật mới được bảo đảm, góp phần vào việc giữ vững an ninh trật tự xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.

Với nhiều ý nghĩa quan trọng của công tác THADS như trên, nên công tác THADS luôn được Chính phủ và Bộ Tư pháp quan tâm chỉ đạo thực hiện, dư luận xã hội cũng rất quan tâm theo dõi. Đặt biệt, từ khi Quốc hội thông qua Nghị quyết số 37/2013/QH13 ngày 23/11/2012  về công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác THADS năm 2013 (NQ37/2012/HQ13). Trong đó, chỉ tiêu Quốc hội giao cho các cơ quan THADS gồm có 04 loại chỉ tiêu: thi hành xong đạt trên 88% về việc, trên 77% về tiền/ số có điều kiện thi hành; ra quyết định thi hành án đúng thời hạn đối với 100% các Bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực theo đúng qui định của pháp luật; cơ bản khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật trong hoạt động THADS. Trên cơ sở Nghị quyết số 37/2012/NQ13 của Quốc hội, Bộ Tư pháp ban hành Quyết định giao chỉ tiêu nhiệm vụ cho hệ thống cơ quan THADS. Được sự phân cấp của Bộ Tư pháp, Tổng Cục THADS thực hiện giao chỉ tiêu cụ thể cho các cơ quan THADS địa phương. Việc giao chỉ tiêu là cần thiết và rất quan trọng trong công tác quản lý, tạo động lực cho cho công chức các cơ quan THADS nỗ lực phấn đấu vượt khó, tìm nhiều giải pháp để hoàn thành chỉ tiêu được giao, hoàn thành nhiệm vụ công tác hàng năm. Kết quả hoàn thành các chỉ tiêu là thước đo về năng lực của từng công chức nói chung và Chấp hành viên, thủ trưởng các cơ quan THADS nói riêng. Tuy nhiên, nếu việc giao chỉ tiêu không khoa học, chưa công bằng, như chỉ tiêu giao quá cao, nơi nhiều việc, nơi ít việc sẽ tạo ra tâm lý không tốt cho người thực hiện, gây áp lực rất lớn đối với đơn vị, cá nhân nhiều việc. Nếu áp lực lớn kéo dài sẽ gây tâm lý căng thẳng cho cá nhân, dễ dẫn đến buông xuôi, phân loại án không đúng để chạy theo việc hoàn thành chỉ tiêu.

Nhìn chung việc giao chỉ tiêu cho các cơ quan THADS thời gian qua đã được cân nhắc xem xét đến các yếu tố như: nguồn nhân lực, số lượng, khối lượng công việc, điều kiện kinh tế xã hội, địa lý từng vùng miền v.v. Tuy nhiên, việc giao chỉ tiêu hiện nay vẫn còn những bất cập nhất định, trong phạm vi bài viết này, xin phân tích đối với hai chỉ tiêu thi hành xong đạt trên 88% về việc, 77% về tiền (tiền và tài sản qui ra tiền)/ số có điều kiện thi hành.

Đối với hoạt động nghiệp vụ THADS thì khởi điểm cho việc bắt đầu thực hiện thụ lý thi hành một vụ việc đã đựơc xác định (từ thời điểm cơ quan THADS nhận Bản án của Tòa án hoặc nhận đơn yêu cầu thi hành án của đương sự) còn thời điểm kết thúc thì phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự chủ động, tích cực và kỹ năng nghiệp vụ tổ chức thi hành của Chấp hành viên, điều kiện của người phải thi hành án hoặc các bên có lên quan, qui định của pháp luật đối với từng vụ việc cụ thể v.v…nên không ấn định được thời hạn kết thúc. Đối với hoạt động nghiệp vụ của Chấp hành viên, hiện nay chưa có nghiên cứu khảo sát để xác định trong thời gian một năm công tác, với những điều kiện về kinh tế xã hội, địa lý vùng, miền, khác nhau thì trung bình một Chấp hành viên có thể tổ chức thi hành được bao nhiêu vụ việc thi hành án, vì vậy chỉ tiêu chung được Quốc Hội, Bộ Tư pháp  giao là 88% về viềc và 77% về giá trị, sau đó Tổng Cục THADS có xem xét cân nhắc một số yếu tố của từng địa phương để giao có tăng giảm một vài phần trăm giữa các địa phương. Các cơ quan THADS luôn cho rằng chỉ tiêu giao như vậy là quá cao, khó có thể thực hiện được. Qua công tác theo dõi, nhận thấy cần phải có cơ sở khoa học và thực tiễn để xác định “Với những điều kiện về kinh tế xã hội, địa lý, giao thông, vùng, miền có những điều kiện tương đồng thì trong một năm công tác một Chấp hành viên có thể tác động tổ chức thi hành được bao nhiêu việc thi hành án”.  Vì chưa xác định được, nên tình trạng  cùng có điều kiện vùng, miền, địa lý, giao thông, kinh tế xã hội gần như nhau nhưng khối lượng công việc có sự chênh lệch rất lớn giữa Chấp hành viên của các địa phương, cụ thể: so sánh số liệu thi hành án về việc và giá trị hai năm 2013 và 2014 của một số tỉnh khu vực phía Nam có những đặc điểm tương đồng về điều kiện thể hiện như sau[1]:

- Các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ: Phú Yên, Kháng Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận:

+ Phú Yên: 195 việc và 13.280.448,nghìn đồng/Chấp hành viên.

+ Khánh Hòa: 270 việc và 32.051.626, nghìn đồng/ Chấp hành viên.

+ Ninh Thuận: 145 việc và 7.378.396, nghìn đồng/ Chấp hành viên.

+ Bình Thuận: 262 việc và 12.756.120, nghìn đồng/ Chấp hành viên.

Như vậy, so sánh địa phương có số bình quân Chấp hành viên thụ lý cao nhất và thấp nhất cho thấy Khánh Hòa cao hơn Ninh Thuận là 1,86 lần về việc và 4,34 lần về giá trị.

- Các tỉnh Miền Đông Nam bộ: gồm có Bà Rịa-Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai:

+ Bà Rịa Vũng Tàu: 246 việc và 39.042.927, nghìn đồng/ Chấp hành viên.

+Tây Ninh: 533 việc và 24.841.199, nghìn đồng/ Chấp hành viên.

+ Bình Dương: 422 việc và 72. 358.739, nghìn đồng/ Chấp hành viên.

+Đồng Nai: 425 việc và 45.703.612, nghìn đồng/ Chấp hành viên.

Như vậy so sánh địa phương có số bình quân Chấp hành viên thụ lý cao nhất và thấp nhất cho thấy Tây Ninh cao hơn Bà Rịa Vũng Tàu là 2,16 lần về việc,   Bình Dương cao hơn Tây Ninh là 2,91 lần về giá trị.

- Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long:

+ Tiền Giang: 445 việc và 24.877.789, nghìn đồng/ Chấp hành viên.

+ Đồng Tháp: 251 việc và 13.271.080,nghìn đồng/ Chấp hành viên.

+ Long An: 435 việc và 38.287.917, nghìn đồng/ Chấp hành viên.

+ Vĩnh Long: 192 việc và 15.205.219, nghìn đồng/ Chấp hành viên.

Như vậy, so sánh địa phương có số bình quân Chấp hành viên thụ lý cao nhất và thấp nhất cho thấy Tiền Giang cao hơn Vĩnh Long 2,31 lần về việc, Long An cao hơn Đồng Tháp 2,88 lần về giá trị.

Mọi so sánh chỉ mang tính tương đối, tuy nhiên trong thực tế những địa phương có số lượng việc và giá trị phải tổ chức thi hành quá cao và có sự chênh lệch đáng kể về khối lượng công việc giữa Chấp hành viên các địa phương trong khu vực như số liệu nêu trên cho thấy có sự bất cập trong việc giao chỉ tiêu và phân bổ nguồn nhân lực (Chấp hành viên) chưa thật sự tương ứng với khối lượng công việc, dẫn đến nơi nhiều việc, nơi ít việc, tạo nên sự không công bằng trong thực hiện chỉ tiêu nhiệm vụ, thi đua khen thưởng, các quyền và nghĩa vụ khác của các cơ quan THADS và Chấp hành viên.

Một nguyên nhân cũng rất quan trọng ảnh hưởng đến việc giao chỉ tiêu và thực hiện chỉ tiêu nhiệm vụ THADS, đó là qui định của pháp luật về các tiêu chí để phân loại việc có điều kiện hay chưa có điều kiện giải quyết. Cụ thể, Thông tư số 01/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn chế độ báo cáo thống kê THADS, quá trình triển khai thực hiện đã giải quyết được nhiều khó khăn vướng mắc cho cơ quan THADS. Tuy nhiên, nhận thấy có những qui định về phân loại có điều kiện hoặc chưa có điều kiện chưa nhận diện hết nguyên nhân khách quan, đã ảnh hưởng đến việc thực hiện các chỉ tiêu công tác THADS. Đó là trường hợp hồ sơ vụ việc Chấp hành viên đã tổ chức thi hành đúng các trình tự, thủ tục, thời gian theo qui định của pháp luật về THADS, nhưng vì lý do khách quan vụ việc chưa thể kết thúc nhưng vẫn xác định là việc có điều kiện giải quyết. Xin nêu  ví dụ điển hình: Hồ sơ Thi hành án đã kê biên đang chờ kết quả thẩm định giá, bán đấu giá; Hồ sơ thi hành án theo định kỳ nhưng chưa đến hạn có thể kéo dài rất nhiều năm mới kết thúc; Hồ sơ hoàn trả các khoản tiền cho đương sự nhưng đương sự không đến nhận, địa chỉ không liên lạc được; Hồ sơ do người phải thi hành án chỉ có tài sản chung duy nhất, tài sản thừa kế chưa chia…; Hồ sơ đang giải quyết khiếu nại v.v… Lý do chưa giải quyết xong là do khách quan, không phải do lỗi của Chấp hành viên.

Để khắc phục những bất cập nêu trên. Xin được đề xuất giải pháp như sau:

Thứ nhất, Tổng Cục THADS nghiên cứu khảo sát các địa phương theo vùng miền, kinh tế xã hội, điều kiện địa lý v.v… phân ra thành khu vực gồm nhóm các địa phương có đặc điểm tương đồng để xác định trong năm công tác một Chấp hành viên có thể tổ chức thi hành tối đa là bao nhiêu vụ việc thi hành án. Trên cơ sở đó sẽ giao chỉ tiêu.

Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu sửa đổi Thông tư số 01/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn chế độ báo cáo thống kê THADS. Cụ thể là các hồ sơ vụ việc Chấp hành viên đã tổ chức thi hành đúng trình tự, thủ tục, thời gian theo qui định của pháp luật về THADS, nhưng vì lý do khách quan vụ việc chưa thể kết thúc tại thời điểm báo cáo thì xác định tiêu chí lý do khác (xếp loại chưa có điều kiện giải quyết, đến khi lý do khách quan không còn thì tiếp tục chuyển sang loại có điều kiện để tiếp tục tổ chức thi hành).

Thứ ba, tiếp tục biệt phái hoặc điều động Chấp hành viên từ địa phương có khối lượng công việc ít đến nơi có khối lượng công việc nhiều, nhằm khắc phục tình trạng quá tải cho Chấp hành viên nơi có việc nhiều, góp phần nâng cao hiệu quả công tác THADS, giảm thiểu sai sót về nghiệp vụ.

Mong được sự quan tâm chia xẻ trao đổi của các đồng nghiệp và bạn đọc về nội dung trên.



[1] Số liệu bình quân/ Chấp hành viên của hai năm 2013 và 2014.