Để điều chỉnh kịp thời các quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung, quan hệ về hôn nhận và gia đình có yếu tố nước ngoài nói riêng, Luật Hôn nhân và gia đình, Nghị định và các Thông tư đã được ban hành. Sau khi Nghị định 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được thay thế bằng Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình (Nghị định 126/2014/NĐ-CP) thì quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài được thực hiện theo Nghị định 126/2014/NĐ-CP từ ngày 15/02/2015 đến nay. Tuy nhiên trong thực tiễn thi hành các quy định trên còn có một số khó khăn cần được kịp thời tháo gỡ. Qua theo dõi, tổng hợp tình hình tại 25 tỉnh, thành phố khu vực phía Nam, chúng tôi xin có một số trao đổi sau:
1. Tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài tại khu vực phía Nam
1.1. Một số nét về tình hình kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trong Khu vực
Những năm gần đây, số lượng công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài có số lượng ổn định. Theo số liệu thống kê tại các Sở Tư pháp trong Khu vực, từ năm 2011 đến 2014, hàng năm có trên 9.000 trường hợp đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp chiếm khoảng 75% so với cả nước và bình quân 3.000 trường hợp ghi chú kết hôn/năm. Tuy số lượng kết hôn năm sau luôn cao hơn năm trước nhưng không có sự gia tăng đột biến. Trong đó, chủ yếu là nữ công dân Việt Nam tham gia trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài (chiếm khoảng 95%), chủ yếu tập trung ở TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai và một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Ngoài ra, công dân Việt Nam kết hôn với công dân Hoa Kỳ (bao gồm cả người Việt Nam định cư tại Hoa Kỳ), Trung Quốc (Đài Loan) tại Sở Tư pháp chiếm đa số, còn ghi chú kết hôn đa phần lại tập trung ở việc kết hôn với công dân Hàn Quốc, Singapore, .... do luật pháp của nước sở tại thông thoáng trong việc đăng ký kết hôn.
 |
 |
Biểu 1: Số liệu thống kê kết hôn có yếu tố nước
ngoài tại Khu vực trong những năm từ 2011
đến 2014 so với số liệu chung cả nước |
Biểu 2: Số lượng công dân Việt Nam kết hôn với
người nước ngoài năm 2014 (chia theo
quốc gia, vùng lãnh thổ) |
Bên cạnh đó, việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân dùng cho công dân Việt Nam kết hôn với công dân nước ngoài tại nước ngoài cũng ngày một nhiều, hoặc xác nhận tình trạng hôn nhân để xuất cảnh, du lịch, các mục đích khác, tiềm ẩn những nguy cơ cho phụ nữ như bị lừa bán, bóc lột tình dục, ....
Ngoài ra, việc kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng phát sinh những hệ luỵ mà các địa phương đang “đau đầu” giải quyết đó là vấn đề quốc tịch của chính người Việt Nam, và vấn đề quốc tịch, hộ tịch cho con của họ khi cuộc hôn nhân không hạnh phúc và họ phải trở về địa phương để sinh sống, nhiều trường hợp mang theo con về Việt Nam.
Sở dĩ, hiện tượng kết hôn với người nước ngoài của công dân Việt Nam hiện nay ngày càng gia tăng về số lượng là do một số nguyên nhân sau:
Nguyên nhân khách quan:
Sự gia tăng các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong xu thế hội nhập. Sự mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu trên mọi lĩnh vực giữa các nước trên thế giới, là cơ hội cho nhiều người nước ngoài đến Việt Nam công tác cũng như công dân Việt Nam ra nước ngoài gặp gỡ, giao lưu tìm hiểu nhau.
Bên cạnh đó, đời sống kinh tế tại nhiều khu vực nông thôn còn khó khăn, lao động thành niên không có việc làm cùng với mạng lưới môi giới hôn nhân bất hợp pháp với nhiều chiêu thức hoạt động tinh vi đã dụ dỗ, lôi kéo phụ nữ nông thôn lấy chồng nước ngoài.
Nguyên nhân chủ quan:
Nhận thức của nhiều người dân đặc biệt là vùng sâu, vùng xa về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài còn hạn chế, chưa hiểu pháp luật, phong tục tập quán, văn hoá của nước mà người Việt Nam kết hôn cũng như chưa nhận thức được các hệ luỵ của kết hôn thông qua môi giới hôn nhân nên đã đồng ý kết hôn với người nước ngoài.
Nhiều cô gái còn suy nghĩ rằng mình kết hôn với người nước ngoài thì gia đình sẽ có một khoản tiền để trang trải cuộc sống, thậm chí có trường hợp kết hôn với người nước ngoài chỉ vì không muốn sống cùng gia đình nữa hoặc ước mơ muốn đi máy bay một lần trong đời...
1.2. Vai trò của các Sở Tư pháp, Hội Liên hiệp phụ nữ và các cơ quan chức năng trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài
Với vai trò là cơ quan giúp cho Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa phương và thực hiện đăng ký hộ tịch theo thẩm quyền, Sở Tư pháp các địa phương đã thực sự làm tốt nhiệm vụ của mình đặc biệt là trong lĩnh vực kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Trình tự thủ tục giải quyết hồ sơ kết hôn được công khai, minh bạch. Các Sở Tư pháp thường xuyên rà soát, tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ cho công dân. Đặc biệt Đồng Tháp còn cử cán bộ giám sát trong quá trình phỏng vấn kết hôn. Những hoạt động này đã hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng nhũng nhiễu trong giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài trong năm qua.
Song song đó, các Sở Tư pháp đã đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho công dân Việt Nam không chỉ Luật Hôn nhân và gia đình mà còn các chủ trương liên quan đến công tác phụ nữ, bình đẳng giới ... nên số lượng người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài gia tăng không đáng kể so với sự gia tăng đột biến trong những năm 2005-2010.
Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh, thành phố và những cơ quan chức năng của tỉnh như Công an, Đoàn Thanh niên, Mặt trận Tổ quốc đã cùng với Sở Tư pháp thực hiện nhiều biện pháp để góp phần làm lành mạnh hóa hôn nhân có yếu tố nước ngoài, như:
- Thành lập các Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình tại các tỉnh, thành phố nhằm hỗ trợ, tư vấn cho công dân Việt Nam về phong tục tập quán, ngôn ngữ, văn hóa, phong tục tập quán, pháp luật về hôn nhân và gia đình, về nhập cư của nước mà đương sự dự định kết hôn với công dân nước đó; Giúp đỡ các bên kết hôn tìm hiểu các vấn đề về hoàn cảnh cá nhân, gia đình, xã hội của mỗi bên và các vấn đề khác liên quan mà các bên yêu cầu; tạo điều kiện để họ tiến tới hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, một vợ, một chồng; Cấp giấy xác nhận cho công dân Việt Nam.
- Nâng cao kiến thức về phòng chống mua bán phụ nữ và trẻ em đến tận khóm, ấp cho người dân trong địa phương, nhất là phụ nữ để góp phần nhận thức đúng đắn hơn về hôn nhân về cuộc sống gia đình, chăm sóc con cái ....
- Tạo việc làm cho thanh niên nông thôn nhất là phụ nữ tại các khu vực khó khăn, để từ đó, giảm áp lực “xuất ngoại” bằng mọi giá để kiếm tiền.
- Nhiều mô hình đã và đang được các Hội Phụ nữ tỉnh triển khai, áp dụng để nâng cao kiến thức cho phụ nữ tại địa phương như: chuyển từ hiện trạng kết hôn “4 không” (1- không biết văn hoá, ngôn ngữ, pháp luật nước định sang lấy chồng; 2- không biết người dự định kết hôn; 3- không biết hoàn cảnh gia đình người dự định kết hôn; 4- không tình yêu) sang mô hình “5 biết” (1- biết văn hoá, ngôn ngữ, pháp luật nước định sang lấy chồng; 2- biết các trường hợp điển hình thành công, thất bại của những người đãn kết hôn với người nước ngoài ở địa phương; 3- hiểu biết người dự định kết hôn; 4- biết hoàn cảnh gia đình của người dự định kết hôn; 5- biết các qui định của Việt Nam về kết hôn với người nước ngoài và cơ quan giúp đỡ mình khi ra nước ngoài); liên kết với Trung tâm chính sách nhân quyền Liên Hiệp quốc-Hàn Quốc (KOCUN) để hỗ trợ tư vấn cho phụ nữ Việt Nam kết hôn với công dân Hàn Quốc….
- Giúp đỡ phụ nữ là nạn nhân của bạo hành gia đình, bị ngược đãi, bỏ trốn về nước hoặc nạn nhân bị mua bán người, lấy chồng nước ngoài trở về hiện đang gặp khó khăn trong cuộc sống tái hoà nhập cộng đồng.
2. Những điểm còn hạn chế và một số kiến nghị
2.1. Những điểm còn hạn chế
Bên cạnh những thành quả nêu trên, hoạt động quản lý nhà nước các sở Tư pháp, sự phối hợp hoạt động của các cơ quan, tổ chức của trong lĩnh vực kết hôn có yếu tố nước ngoài đang gặp không ít những khó khăn thách thức sau:
Một là, chưa có tiêu chí xác định sự hiểu biết phong tục, tập quán, văn hoá của các nước mà công dân Việt Nam muốn đến đăng ký kết hôn. Khi phỏng vấn kết hôn cán bộ hộ tịch tại các Sở Tư pháp phải tự tìm hiểu qua nhiều kênh thông tin khác nhau, cũng như chưa thể kiểm chứng tính chính xác của các thông tin được thu thập mà phần nhiều dựa vào “niềm tin nội tâm”. Điều này sẽ càng khó khăn hơn khi việc phỏng vấn kết hôn, cấp Giấy chứng nhận kết hôn có yếu tố nước ngoài được chuyển về Uỷ ban nhân dân cấp huyện theo quy định của Luật Hộ tịch.
Hai là, sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai bên nam nữ trước khi kết hôn còn hạn chế khiến nhiều phụ nữ Việt sau khi kết hôn lâm vào hoàn cảnh khó khăn, trớ trêu dẫn đến hôn nhân tan vỡ. Nhiều trường hợp khi đến phỏng vấn kết hôn tại Sở Tư pháp đã thực tế chung sống với nhau và đã có thai, có con chung, đặt Sợ Tư pháp vào “tình thế đã rồi”, khó từ chối. Ghi nhận tại Hậu Giang, có tới 336 trẻ em “con lai” được mẹ mang về Việt Nam sinh sống và đang gặp khó khăn trong việc đăng ký khai sinh, quốc tịch và nhập học cho trẻ.
Trong Khu vực hiện có 13 tỉnh, thành phố[i] đã thành lập Trung tâm hỗ trợ hôn nhân và gia đình. Đắk Nông, Đồng Nai, Vĩnh Long đang có phương án chuẩn bị thành lập Trung tâm. Một số Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình còn thiếu nhân sự, chuyên gia tư vấn nên chưa tương xứng với vai trò và đòi hỏi của xã hội.
Ba là, một số quy định của pháp luật chưa rõ ràng, chưa phù hợp với thực tiễn như
- Về giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân. Các nước trên thế giới sử dụng các loại văn bản khác nhau để cấp cho công dân khi họ thực hiện việc đăng ký kết hôn. Ví dụ: Vương quốc Anh cấp Giấy Chứng nhận không cản trở trong việc kết hôn; Liên Bang Úc cấp Công hàm không cản trở kết hôn; Hàn Quốc cấp Giấy chứng nhận; Công Hoà Pháp cấp Giấy Chứng nhận đủ điều kiện kết hôn của một công dân Pháp; Canada, Hoa Kỳ, Singapore, Trung Quốc (Đài Loan) cho công dân tuyên thệ.... Sở Tư pháp cũng chỉ nắm được quy định của một số nước theo kinh nghiệm, nhưng không đầy đủ nên trong trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cũng gặp nhiều khó khăn.
Ngoài ra, cán bộ tư pháp đã phát hiện vài trường hợp công dân có hai quốc tịch, “lanh trí” giấu bớt một passport để khỏi xin hai giấy xác nhận. Hộ chiếu họ giấu thường là hộ chiếu mang quốc tịch Việt Nam vì thủ tục xin giấy xác nhận của Việt Nam khó hơn nước bạn.
- Phỏng vấn đối với người có yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Theo quy định tại Nghị định 126/2014/NĐ-CP thì Sở Tư pháp phỏng vấn để làm rõ sự tự nguyện, mục đích kết hôn, sự hiểu biết của công dân Việt Nam về hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh cá nhân của người nước ngoài, về ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hoá pháp luật về hôn nhân và và gia đình của quốc gia, vùng lãnh thổ mà người nước ngoài cư trú.
Tuy nhiên, lại không quy định người nước ngoài phải có giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của mình nên Sở Tư pháp không thể xác định tính chính xác đối với Người nước ngoài: kết hôn lần thứ ba hoặc đã kết hôn và ly hôn với vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam; hoặc công dân Việt Nam sẽ không có mặt để đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài.
Đồng thời Nghị định 126/2014/NĐ-CP cũng chưa quy định về thời gian nộp hồ sơ xin cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn lần hai nếu đương sự bị từ chối trong việc phỏng vấn trước. Do vậy, nhiều công dân đã nộp lại hồ sơ sau khi đã bị từ chối.
- Ghi vào sổ việc kết hôn. Theo quy định tại Nghị định 126/2014/NĐ-CP và Thông tư 2a/2015/TT-BTP hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 cùa Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, thì nếu việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân không đúng trình tự thủ tục trước khi công dân Việt Nam đăng ký kết hôn tại nước ngoài thì bị từ chối ghi vào sổ việc kết hôn.
Nếu công dân Việt Nam kết hôn với một số nước không yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (Singapore...) và công dân Việt Nam cũng không xin cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thì giải quyết việc ghi chú kết hôn như thế nào?
- Lệ phí phỏng vấn cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Quy trình phỏng vấn để cấp một Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để đăng ký kết hôn ở nước ngoài giống như quy trình phỏng vấn đăng ký kết hôn nhưng chưa có quy định về thu lệ phí mà chỉ Uỷ ban nhân dân cấp xã được thu lệ phí từ 3.000 đồng đến 5.000 đồng/trường hợp.
2.2. Một số kiến nghị
Kết hôn với người nước ngoài là hiện tượng bình thường xảy ra ở tất cả các quốc gia nói chung, Việt Nam nói riêng, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Chính vì vậy, những giải pháp cần thực hiện không nhằm mục đích hạn chế, ngăn cản quan hệ kết hôn với người nước ngoài mà nhằm tránh những rủi ro, không đáng có đối với phụ nữ Việt Nam tham gia các quan hệ hôn nhân.
Giải pháp hữu hiệu lâu dài là nâng cao chất lượng cuộc sống, đặc biệt là cho phụ nữ, thông qua các chương trình xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, nâng cao trình độ học vấn, cải thiện đời sống khu vực nông thôn ... Một khi cuộc sống khó khăn, phụ nữ sẽ ít viễn tưởng đến cuộc sống khác, có nhiều lựa chọn hơn là chấp nhận cuộc sống xa quê, họ hàng và những người thân thiêt khác.
Cần nghiên cứu, biên soạn những tài liệu cung cấp tài liệu, thông tin chính thống cũng như tập huấn cho cán bộ làm công tác hộ tịch tại các Sở Tư pháp, chuyên gia tư vấn tại các Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm nâng cao sự hiểu biết về văn hoá, pháp luật của các nước trên thế giới giúp cho việc đánh giá, nhận xét về sự hiểu biết của các bên được đầy đủ và toàn diện hơn, đảm bảo việc thực hiện thống nhất.
Bộ Tư pháp có trao đổi với các Cơ quan đại diện ngoại giao của các nước tại Việt Nam về quy định trong việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân và giấy xác nhận đủ điều kiện kết hôn để hướng dẫn cho địa phương thực hiện thống nhất, đúng quy định của pháp luật. Bộ Tư pháp cung cấp danh sách các nước có quy định cấp giấy xác nhận đủ điều kiện kết hôn để Sở Tư pháp thuận lợi trong việc thực hiện quy định này. Mong rằng những vướng mắc từ địa phương được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn kịp thời, để nguyện vọng của người dân được giải quyết sớm./.
[i] Lâm Đồng, Bình Phước, TP. Hồ Chí Minh, An Giang, Đồng Tháp, Tây Ninh, Sóc Trăng, Cà Mau, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long An và Kiên Giang