Công tác chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng tại khu vực phía Nam – Cơ hội và thách thức
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

Công tác chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng tại khu vực phía Nam – Cơ hội và thách thức

1. Quan điểm chỉ đạo

Xã hội hóa hoạt động công chứng là một chủ trương lớn của theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 “…Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này” nhằm giảm sức ép cho cơ quan nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ công, đồng thời phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày càng lớn của người dân, đẩy mạnh cải cách tư pháp, giúp ổn định và phát triển đất nước. Trong Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020 được ban hành kèm theo Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ đã giao Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương “rà soát, đánh giá tình hình tổ chức và hoạt động của các Phòng công chứng trên địa phương mình, đề xuất cổ phần hóa các Phòng công chứng đủ điều kiện theo lộ trình phù hợp”.

Luật công chứng 2014 và Nghị định số 29/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng đã thể hiện rõ và nhất quán nội dung trên. Việc thực thi tốt các quy định này tất yếu góp phần tạo ra những cơ hội và hệ quả hữu ích như: giảm sức ép về sự quá tải trong công việc của cơ quan nhà nước về cung cấp dịch vụ công (i); giảm bớt gánh nặng cho ngân sách, nhân lực và thời gian của nhà nước (ii); góp phần đưa công chứng trở thành dịch vụ công chuyên nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân tổ chức được hưởng thụ dịch vụ pháp lý an toàn, chất lượng cao, đồng thời phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày càng lớn của người dân (iii), là giải pháp thiết thực để đẩy mạnh cải cách tư pháp, giúp ổn định và phát triển đất nước (iv).

 

             2. Thực tiễn việc chuyển đổi Phòng Công chứng thành Văn phòng Công chứng tại khu vực phía Nam[1].

Trong quá trình theo dõi tiến trình chuyển đổi Phòng Công chứng thành Văn phòng Công chứng tại khu vực phía Nam, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh những cơ hội hữu ích này, đã xuất hiện không ít những thách thức cần giải quyết trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách pháp luật trong lĩnh vực này, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về quan điểm thực hiện theo hướng chủ động/không chủ động thực thi chủ trương chuyển đổi.

Tính đến thời điểm hiện nay, toàn khu vực phía Nam hiện có 380 tổ chức hành nghề công chứng, trong đó có 57  Phòng công chứng, 323 Văn phòng công chứng với 828 công chứng viên trong đó có 217 Công chứng viên của Phòng công chứng, 611 công chứng viên của Văn phòng công chứng. Qua thống kê, rà soát, hiện có 14 địa phương thuộc đối tượng chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng theo trường hợp 1 quy định tại khoản 5 Nghị định 29 “Các địa bàn cấp huyện đã thành lập đủ số tổ chức hành nghề công chứng theo Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và số lượng Văn phòng công chứng nhiều hơn số lượng Phòng công chứng”. Một số địa phương như Hậu Giang, Đắk Nông, Ninh Thuận tuy đã thành lập đủ số lượng tổ chức hành nghề công chứng theo quy hoạch nhưng không đáp ứng được điều kiện trên vì không có số Phòng công chứng nhiều hơn Văn phòng công chứng[2]. Tính  đến thời điểm hiện nay, chúng tôi nhận thấy trong khu vực mới có 2 địa phương đã xây dựng và trình UBND tỉnh phê duyệt Đề án chuyển đổi Phòng công chứng là Cần Thơ và Lâm Đồng[3]. Như vậy với tỷ lệ chỉ có 2/14 địa phương thuộc đối chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng, điều này đã bộ lộ quan điểm không đồng nhất giữa các sở Tư pháp trong việc chủ động/không chủ động thực hiện chủ trương chuyển đổi Phòng Công chứng thành Văn phòng công chứng.

Thứ hai, về vướng mắc xác định mốc thời gian và lộ trình thực hiện

Tuy Điều 5 Nghị định số 29/2015/NĐ-CP đã quy định cụ thể các trường hợp chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng, nhưng lại không quy định cụ thể thời hạn thực hiện, hay nói đúng hơn là lộ trình buộc phải thực hiện chuyển đổi khi các địa phương đã đủ điều kiện luật định trong việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng Công chứng. Điều này, có thể dẫn đến các hệ quả không mong muốn là các địa phương sẽ ưu tiên nguồn lực và thời gian cho các nhiệm vụ khác trong ngành hơn là chủ động thực thi chủ trương chuyển đổi này.

Thứ ba, về vướng mắc về xử lý tài sản khi chuyển đổi

Căn cứ Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 03/6/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, đối chiếu với chủ trương chuyển đổi này thì việc xử lý tài sản được thực hiện qua 02 cách “bán chỉ định”hoặc “bán đấu giá”. Xem xét Điều 20 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP quy định “việc bán tài sản nhà nước thực hiện bằng phương thức đấu giá công khai theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; trừ các trường hợp được bán chỉ định quy định tại khoản 2 Điều này”, Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP  quy định phương thức bán chỉ định áp dụng trong trường hợp “tổ chức hoặc cá nhân đăng ký mua tài sản trên đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để sử dụng cho mục đích xã hội hóa thuộc lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, môi trường phù hợp với quy hoạch được duyệt”. Qua các quy định trên, chúng ta nhận thấy rằng phương thức bán đấu giá tài sản nhà nước được hiểu là phương thức xử lý tài sản duy nhất.  Và hệ quả trong trường hợp bán đấu giá này là  việc tham gia đấu giá có thể có sự rất nhiều tổ chức, cá nhân tham gia, câu hỏi được đặt ra là trong trường hợp, các công chứng viên của Văn phòng công chứng mới không trúng đấu giá thì việc định giá trị tài sản vô hình được tính như thế nào? và CBCC, người lao động trong các Phòng công chứng chắc hẳn có những trăn trở nhất định nếu hiểu rằng việc xử lý tài sản của Phòng công chứng không tính đến các yếu tố khác ngoài yếu tố duy nhất là mức giá cao nhất do bất kỳ cá nhân, tổ chức nào trả giá cao nhất, không phụ thuộc vào chủ thể có xuất thân từ chính Phòng công chứng đang chuyển đổi thành Văn phòng công chứng!. Bên cạnh đó, tại điều 8 Nghị định số 29/2015/NĐ-CP quy định quyền nhận chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng Công chứng “được tổ chức đấu giá trong trường hợp có giá trị lớn”, việc xử lý tài sản khi chuyển đổi, đặc biệt là việc định giá trị những tài sản vô hình như thương hiệu của Phòng Công chứng khi chuyển đổi có/không được xem là tài sản để định giá…việc  hiểu và áp dụng nội hàm này đã tạo ra sự tranh cãi không nhỏ trong các Sở![4].

Thứ tư, về giải quyết chế độ chính sách cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khi thực hiện đề án chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng.

Tại khoản 3 Điều 4 và Điều 10 Nghị định số 29/2015/NĐ-CP quy định “Văn phòng công chứng được thành lập từ việc chuyển đổi Phòng công chứng phải ký hợp hợp đồng lao động với công chứng viên, viên chức, người lao động của phòng công chứng đó”. Tuy nhiên việc thực thi nội dung này không quy định điều khoản chế tài trong trường hợp Trưởng Văn phòng công chứng không thực hiện hoặc thực hiện với ưu tiên hiệu quả kinh tế, cắt giảm tối đa chi phí khi sử dụng người lao động. Nếu điều này được áp dụng có thể có một bộ phận buộc phải mất việc khi chuyển đổi như các chức danh chuyên viên, văn thư, kế toán…gọi chung là bộ phận hỗ trợ, phục vụ việc tác nghiệp của công chứng viên, tuy họ không phải là công chứng viên tuy nhiên các công việc của họ, ít nhiều là nòng cốt làm nên thương hiệu của Phòng công chứng. Trong một số trường hợp đằng sau những con người này là cả một gia đình, nhiều người trong số họ cả đời làm việc và gắn bó với Phòng công chứng, nay đã sắp hết tuổi lao động, hiệu quả công tác có mức độ, nên việc 1-2 năm bị mất việc làm là khả năng có thể xảy ra, việc này phần nào gây tâm tư, hoang mang cho viên chức, người lao động làm việc tại các Phòng công chứng khi buộc phải thực hiện chủ trương chuyển đổi này.

 

               3. Đề xuất,kiến nghị

Việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng là một trong những giải pháp nhằm thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Đây là vấn đề mới, đặt ra nhiều nội dung cần giải quyết như: chính sách này chưa từng có trong tiền lệ quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng; việc giải quyết hài hòa quyền và lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với công chứng viên, viên chức, người lao động đang hoạt động tại Phòng Công chứng; các giải pháp kỹ thuật hợp lý trong việc xác định giá trị chuyển đổi; cơ chế quản lý nhà nước sau chuyển đổi…

Từ những kết quả bước đầu nêu trên và qua theo dõi các địa phương trong khu vực, chúng tôi có một số đề xuất kiến nghị sau:

Một là, các Sở Tư pháp cần có bước khảo sát, đánh giá toàn diện về tổ chức và hoạt động của Phòng công chứng trong phạm vi địa phương để có thể trả lời cho câu hỏi về mức độ, nhu cầu cho việc thực hiện chuyển đổi từ Phòng Công chứng sang Văn phòng Công chứng nhằm giúp cho việc chuyển đổi được chính xác, khách quan, đúng quy định và phù hợp với nguyện vọng của công chứng viên, viên chức, người lao động, đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa công tác quản lý nhà nước (Sở Tư pháp) với các cá nhân, tổ chức có liên quan;

Hai là, trên kinh nghiệm sẵn có của Sở Tư pháp Cần Thơ và Lâm Đồng, các Sở Tư pháp nên nhanh chóng tìm hiểu quá trình thực hiện việc Đề án của 2 địa phương đi đầu trong việc chuyển đổi mô hình Phòng Công chứng sang Văn phòng Công chứng để áp dụng tại địa phương mình;

Ba là, qua kinh nghiệm của Lâm Đồng và Cần Thơ, việc phổ biến, các quy định của Luật và Nghị định số 29/2015/NĐ-CP cần được quán triệt mạnh mẽ đến các cấp, ngành trong địa phương nhằm tạo sự đồng thuận trong việc ủng hộ chủ trương chuyển đổi. Kiên trì giải thích và làm rõ những băn khoăn, vướng mắc bao gồm cả các ý kiến trái chiều trong quá trình thực hiện chủ trương xã hội hóa này.

 


[1] Khu vực phía Nam bao gồm 25 tỉnh, thành phố, được tính từ Phú Yên đến Cà Mau, trong đó có 2 tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên là Lâm Đồng và ĐắcNông.

[2] Trong khu vực chỉ có Lâm Đồng ( số lượng 05 PCC) và Thành phố Hồ Chí Minh (số lượng 07 PCC) là 2 địa phương thuộc đối tượng của Nghị định phải xây dựng Kế hoạch chuyển đổi Phòng công chứng vì có từ 5 Phòng công chứng trở lên.

[3] Trong đó Cần Thơ xây dựng Đề án chuyển đổi cả 2 Phòng công chứng số 1 và số 2, Lâm Đồng chuyển đổi Phòng công chứng số 2.

[4] Tại hội thảo Chuyển đổi Mô hình Phòng công chứng thành Văn phòng Công chứng tại Cục Công tác phía Nam ngày 27/11/2015, đại diện các Sở Tư pháp Long An, Tây Ninh và Bình Dương có những quan ngại nhất định trong hiểu và thực thị quy định này!