Để triển khai nhiệm vụ hệ thống hóa VBQPPL theo định kỳ bảo đảm tiến độ, chất lượng, ngày 25/01/2018, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 126/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch thực hiện hệ thống hóa VBQPPL thống nhất trong cả nước kỳ 2014-2018. Trên cơ sở đó, các địa phương đã ban hành Kế hoạch triển khai, xác định rõ các công việc cần làm, tiến độ và trách nhiệm của các cơ quan liên quan. Ngoài việc cử công chức tham dự các hội nghị tập huấn rà soát, hệ thống hóa VBQPPL kỳ 2014 - 2018 do Bộ Tư pháp tổ chức, các địa phương còn chủ động tổ chức các hội nghị tập huấn cho các công chức pháp chế của HĐND, các sở, ban, ngành, UBND các cấp. Cụ thể, Sở Tư pháp An Giang tổ chức tập huấn cho 195 đại biểu, biên soạn và cấp phát miễn phí 500 cuốn tài liệu; Cần Thơ tổ chức tập huấn cho 120 cán bộ… Hầu hết các công chức đều nắm bắt đầy đủ kiến thức, kỹ năng thực hiện công tác hệ thống hóa VBQPPL theo quy định.
Theo kết quả công bố của các địa phương, trong Khu vực hiện nay có 10.455 văn bản còn hiệu lực, 6.281 văn bản hết hiệu lực toàn bộ, 749 văn bản hết hiệu lực một phần, 1.950 văn bản cần sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế. Nhìn chung, công tác rà soát, hệ thống hóa VBQPPL đã đạt được một số kết quả nhất định, thông qua công tác rà soát, hệ thống hóa đã kịp thời phát hiện và xử lý nhiều VBQPPL ban hành không còn phù hợp với quy định pháp luật hoặc tình hình thực tế tại địa phương để kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, từ đó góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước bằng pháp luật ở địa phương. Công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện rà soát, hệ thống hóa VBQPPL cũng được thực hiện khá tốt đã hạn chế việc đùn đẩy trách nhiệm khi thực hiện công tác này.
Hội nghị tập huấn công tác hệ thống hóa VBQPPL tại Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh
Tuy nhiên, theo báo cáo, công tác này diễn ra tương đối chậm, 10 địa phương công bố
kết quả hệ thống hóa VBQPPL kỳ 2014-2018 sau ngày 01/3/2019: Bến Tre, Bình Phước, Cà Mau, Cần Thơ, Đồng Tháp, Đăk Nông, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Trà Vinh, Vĩnh Long. Tiến độ thực hiện công tác này còn chưa đảm bảo, chủ yếu là do các địa phương gặp phải những khó khăn như sau:
Khó khăn, vướng mắc về thể chế:
- Theo quy định tại Điều 164, Điều 167 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, đối tượng hệ thống hóa là VBQPPL còn hiệu lực, nhưng kết quả hệ thống hóa bao gồm cả danh mục VBQPPL hết hiệu lực toàn bộ và một phần. Trong khi đó, hàng năm, các địa phương đều đã công bố danh mục VBQPPL hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần. Điều này gây lúng túng trong quá trình thực hiện khi xác định đối tượng VBQPPL cần hệ thống hóa.
- Nghị định số 34/2016/NĐ-CP chưa có quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan trong việc xử lý kết quả hệ thống hóa. Thực tiễn hiện nay, nhiều địa phương chỉ công bố các danh mục và tập hệ thống hóa văn bản theo quy định, còn việc xử lý kết quả hệ thống hóa hầu như chưa được thực hiện nghiêm túc, triệt để.
- Việc công bố kết quả hệ thống hóa theo quy định tại Khoản 7 Điều 167 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP “
phải được đăng trên cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan hệ thống hóa văn bản (nếu có)”. Điều này khó thực hiện, do cấp xã hiện nay phần lớn chưa có trang thông tin điện tử, đồng thời, cổng thông tin điện tử kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật chỉ dừng lại ở VBQPPL cấp tỉnh, chưa có VBQPPL cấp huyện và cấp xã.
- Chưa có hướng dẫn việc hệ thống hóa đối với VBQPPL cấp huyện và xã ban hành trước Luật Ban hành VBQPPL năm 2015, đến nay vẫn còn hiệu lực, mặc dù phần lớn căn cứ ban hành VBQPPL này đã hết hiệu lực. Những văn bản này được xếp vào Danh mục VBQPPL còn hiệu lực hay Danh mục VBQPPL cần đình chỉ thi hành, ngưng hiệu lực, sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc ban hành mới?
- Một số bộ, ngành, địa phương không kịp thời cập nhật VBQPPL vào Cơ sở dữ liệu quốc gia pháp luật để phục vụ cho hoạt động kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa.
Về tổ chức bộ máy, biên chế: Công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá VBQPPL là công việc phức tạp, khối lượng công việc lớn đòi hỏi phải có một lực lượng công chức đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nhưng đến nay, tổ chức biên chế của các cơ quan được giao trách nhiệm kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá VBQPPL vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Đối với Sở Tư pháp, nhiệm vụ kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản được giao cho Phòng Xây dựng và Kiểm tra VBQPPL thực hiện, song với số lượng biên chế trung bình 04 người cùng với khối lượng công việc tương đối nhiều ở các mảng công tác khác như xây dựng, thẩm định, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, pháp chế thì công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá VBQPPL mới chỉ được thực hiện cơ bản theo kế hoạch hoặc yêu cầu đột xuất của các Bộ chuyên ngành.
Đối với Phòng Tư pháp các huyện, thị xã, thành phố, hiện nay bình quân mỗi Phòng Tư pháp có từ 3 - 4 biên chế, do đó, hầu hết các Phòng Tư pháp không bố trí được công chức chuyên trách công tác này và chỉ thực hiện nhiệm khi có yêu cầu. Đối với Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn, cùng với khối lượng công việc lớn mà cán bộ Tư pháp ở cấp xã phải đảm nhiệm nên công tác này chưa được quan tâm thực hiện.
Đối với các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, công chức phụ trách (cán bộ pháp chế) thường xuyên có sự thay đổi, vì vậy trong công tác rà soát, hệ thống hóa VBQPPL còn nhiều lúng túng, chưa tham mưu đảm bảo theo kế hoạch.
Về kinh phí: Kinh phí cho công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL được thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BCT-BTP ngày 17/8/2011 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí đảm bảo cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL và các văn bản khác có liên quan. Tuy nhiên Thông tư này được ban hành trước Luật Ban hành VBQPPL 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, nên chưa bao quát hết nội dung công việc, nội dung chi và mức chi còn chung chung. Do vậy, mức chi cho công tác này chưa tương xứng với tính chất công việc, chưa thu hút, tạo động lực cho công chức cống hiến.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác rà soát, hệ thống hóa VBQPPL trong thời gian tới, cần chú trọng thực hiện tốt một số giải pháp như sau:
Một là, sớm tham mưu ban hành hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Nghị định 34/2016/NĐ-CP để khắc phục những vướng mắc, bất cập hiện nay. Xem xét, nghiên cứu lại quy định về tự kiểm tra VBQPPL do chính cơ quan mình ban hành. Vì cơ chế tự mình ban hành, tự mình thực hiện kiểm tra sẽ tạo ra tình trạng thiếu khách quan trong quá trình tự kiểm tra văn bản và thực tế trong thời gian qua hầu hết các văn bản ban hành trái pháp luật đều do cơ quan cấp trên khi thực hiện công tác kiểm tra theo thẩm quyền phát hiện.
Hai là, Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tích cực triển khai thực hiện phần mềm hỗ trợ công tác kiểm tra, rà soát VBQPPL.
Ba là, Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao kỹ năng cho công chức làm công tác rà soát, kiểm tra, hệ thống hóa VBQPPL. Có cơ chế khen, thưởng phù hợp để khích lệ, động viên công chức đóng góp, cống hiến cho công việc.
Bốn là, Chú trọng khâu xử lý kết quả của tập hệ thống hóa VBQPPL, kịp thời đình chỉ, sửa đổi, bổ sung, thay thế những VBQPPL có dấu hiệu trái pháp luật, ngăn chặn nguy hại có thể gây ra cho đời sống, kinh tế, xã hội./.
Hà My