I. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong các quy định của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP
1. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập tại Chương I:
- Về xác định giá trị tang vật VPHC để làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt:
Điều 60 Luật XLVPHC hiện hành quy định xác định giá trị tang vật VPHC, nhưng không quy định xác định giá trị phương tiện VPHC để làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt. Nghị định 81/2013/NĐ-CP không quy định chi tiết nội dung trên.
-
Về người lập biên bản VPHC:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo khoản 7 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) quy định về lập biên bản VPHC và ra quyết định xử phạt VPHC: “
Người có thẩm quyền lập biên bản VPHC gồm người có thẩm quyền xử phạt, công chức, viên chức và người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đang thi hành công vụ, nhiệm vụ theo văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản hành chính do cơ quan, người có thẩm quyền ban hành; người chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu và những người được chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu giao nhiệm vụ lập biên bản”. Việc quy định như vậy dẫn đến khó khăn cho các cơ quan chuyên môn cũng như UBND cấp xã trong quá trình lập biên bản VPHC, vì số lượng cán bộ, công chức không có mặt thường xuyên tại nơi vi phạm để lập biên bản VPHC.
- Về sửa đổi, bổ sung quyết định về XLVPHC (Điều 6):
+ Theo Điều 6c, thời hạn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về XLVPHC là 01 năm kể từ ngày ra quyết định về XLVPHC. Trong thực tế, có những trường hợp quyết định xử phạt VPHC đã được ban hành và đã được tổ chức thi hành xong nhưng sau 01 năm mới phát hiện có sai sót. Hoặc trường hợp xử phạt VPHC đã thi hành hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung, nhưng chưa thi hành biện pháp khắc phục hậu quả, nhưng sau 1 năm mới phát hiện quyết định có sai sót. Trong những trường hợp trên, Nghị định chưa hướng dẫn xử lý như thế nào.
+ Đối với các trường hợp quyết định xử phạt VPHC sai (sai về thể thức, nội dung hoặc thẩm quyền) và hết thời hạn sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ nhưng áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vẫn còn thời hạn thì chưa có quy định xử lý đối với các quyết định này.
+ Quyết định xử phạt VPHC xác định sai đối tượng bị xử phạt thì xử lý theo hướng nào thì Luật XLVPHC và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP, Nghị định số 97/2017/NĐ-CP chưa có hướng dẫn. Ví dụ: Cá nhân vi phạm nhưng ban hành quyết định xử phạt VPHC đối với tổ chức hoặc ngược lại.
+ Chưa giải thích rõ “
quyết định về XLVPHC” là những loại văn bản nào (chỉ là văn bản hành chính thể hiện bằng hình thức “
quyết định” hay bao gồm cả văn bản thể hiện bằng các hình thức khác như
“biên bản”, ...) và thực tế các mẫu quyết định sửa đổi, bổ sung, đính chính quyết định về XLVPHC kèm theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP cũng chỉ điều chỉnh loại văn bản thể hiện bằng hình thức “
quyết định” (
mẫu Quyết định số 32, 33, 34, 35) nên trong thực tế vẫn chưa giải quyết được vướng mắc khi lập biên bản VPHC bị sai sót.
- Về việc công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng việc xử phạt đối với cá nhân, tổ chức (Điều 8):
Khoản 6 Điều 6 và Điều 8 Nghị định 81/2013/NĐ-CP đã hướng dẫn về công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng những VPHC quy định tại Khoản 1 Điều 72 Luật XLVPHC nhưng không giải thích cụ thể, rõ ràng về “
hậu quả lớn”, “
gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội” nên trên thực tế không có cơ sở để áp dụng
[1].
- Về xử phạt VPHC trong trường hợp người bị xử phạt chết, mất tích, tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản: (Điều 9)
Theo quy định tại Điều 75 Luật XLVPHC: “
Trường hợp người bị xử phạt chết, mất tích, tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản thì không thi hành quyết định phạt tiền nhưng vẫn thi hành hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện VPHC và biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định”. Để hướng dẫn nội dung này, khoản 1 Điều 9 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) quy định: “
Trường hợp người bị xử phạt chết, mất tích, tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản theo quy định tại Điều 75 Luật XLVPHC, mà quyết định xử phạt vẫn còn thời hiệu thi hành, thì người đã ra quyết định xử phạt phải ra quyết định thi hành một phần quyết định xử phạt VPHC trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày người bị xử phạt chết được ghi trong giấy chứng tử; người bị mất tích được ghi trong quyết định tuyên bố mất tích; tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản được ghi trong quyết định giải thể, phá sản. Quyết định thi hành gồm các nội dung sau: a) Đình chỉ thi hành các hình thức xử phạt, lý do đình chỉ; trừ trường hợp quy định tại Điểm b khoản này; b) Hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện VPHC và biện pháp khắc phục hậu quả tiếp tục thi hành”. Lợi dụng quy định này, nhiều doanh nghiệp bị xử phạt VPHC với số tiền lớn đã tự giải thể (sau đó thành lập doanh nghiệp khác) để trốn tránh trách nhiệm, nghĩa vụ nộp phạt của mình.
Điểm d Khoản 1 Điều 65 Luật XLVPHC quy định: “
Cá nhân VPHC chết, mất tích, tổ chức VPHC đã giải thể, phá sản trong thời gian xem xét ra quyết định xử phạt” thì không ban hành quyết định xử phạt nhưng có thể ra quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy tang vật VPHC thuộc loại cấm lưu hành và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này. Quyết định phải ghi rõ lý do không ra quyết định xử phạt VPHC; tang vật bị tịch thu, tiêu hủy; biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng, trách nhiệm và thời hạn thực hiện. Điều này chỉ quy định trong trường hợp đang xem xét ra quyết định xử phạt, có nghĩa là biên bản VPHC đã lập rồi và người VPHC còn sống và ký vào biên bản VPHC. Do đó, nếu sau khi đã xem xét, chứng minh là có hành vi vi phạm (ví dụ qua kết quả lấy mẫu, kết quả xác định hàng hóa là giả, kém chất lượng…) mà người vi phạm chết thì biên bản VPHC có lập được hay không, nếu lập được thì ghi như thế nào trong mẫu biên bản? Nếu biên bản không lập được thì trong Mẫu quyết định số 13 ban hành kèm theo Nghị định 97/2017/NĐ-CP, phần căn cứ để ra quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả lại có ghi “Căn cứ biên bản VPHC số….”. Trường hợp này giải quyết như thế nào?
 |
|
 |
- Về nộp phạt nhiều lần (Điều 10):
Điều 79 Luật XLVPHC và Khoản 3 Điều 10 Nghị định 81/2013/NĐ-CP quy định “việc nộp tiền phạt nhiều lần áp dụng đối với cá nhân bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng trở lên và tổ chức bị phạt từ 200.000.000 đồng trở lên đang gặp khó khăn đặc biệt về kinh tế và có đơn đề nghị nộp tiền phạt nhiều lần” là chưa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân. Thực tế, có khá nhiều trường hợp cá nhân bị phạt dưới 20.000.000 đồng; tổ chức bị phạt dưới 200.000.000 đồng không có khả năng nộp phạt một (01) lần nhưng không thuộc trường hợp “đang gặp khó khăn đặc biệt về kinh tế” có đơn đề nghị người có thẩm quyền xem xét cho nộp phạt nhiều lần nhưng không được chấp thuận, dẫn đến tình trạng tổ chức buộc phải dây dưa nộp chậm hoặc cá nhân phải xin hoãn, làm khó khăn cho công tác đôn đốc, theo dõi chấp hành quyết định xử phạt.
-
Về tịch thu tang vật để bán đấu giá (Điều 12):
Điều 12 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP về thủ tục chuyển giao tang vật, phương tiện VPHC bị tịch thu để bán đấu giá, thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày có quyết định tịch thu tang vật, phương tiện VPHC thì cơ quan ra quyết định tịch thu phải ký hợp đồng bán đấu giá với tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh nơi xảy ra hành vi VPHC, nhưng thực tế tang vật tịch thu tại đơn vị từng vụ là gỗ rừng trồng số lượng ít, giá trị thấp, không bằng chi phí định giá, đấu giá tang vật tịch thu nếu tổ chức bán đấu giá trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có quyết định tịch thu.
Tại khoản 1 Điều 12 của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định
“Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu không thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1, Điều 82 Luật Xử lý vi phạm hành chính, thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày có quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thì cơ quan ra quyết định tịch thu phải ký hợp đồng bán đấu giá với tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi xảy ra hành vi vi phạm hành chính…”. Tuy nhiên, theo quy định thì tài sản bị tịch thu muốn đưa ra bán đấu giá trước hết phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt phương án xử lý tài sản. Đồng thời, để chuẩn bị cho việc bán đấu giá tài sản cần phải thực hiện các thủ tục khác như tiến hành giám định, thành lập Hội đồng định giá tài sản... Do đó, việc quy định thời hạn 30 ngày nêu trên gây khó khăn cho cơ quan thực hiện.
- Về thời hạn ra Quyết định xử phạt: theo quy định tại Điều 66 Luật XLVPHC có quy định: “
Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày”. Tuy nhiên, đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể như thế nào là vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp.
- Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) chưa quy định cụ thể về việc xử lý tang vật, phương tiện trong cùng một vụ việc nhưng vừa có đối tượng VPHC, vừa có đối tượng bị khởi tố hình sự.
- Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) chưa quy định cụ thể chi tiết biện pháp chế tài khi người VPHC trốn khỏi địa phương không xác định được địa chỉ cụ thể.
- Nghị định chưa quy định rõ thế nào là giao quyền, ủy quyền; chưa quy định cụ thể những trường hợp nào người có thẩm quyền giao quyền, ủy quyền cho cấp phó.
2. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập tại Chương II:
Mặc dù các cấp, các ngành có nhiều cố gắng để hoàn thành tốt trách nhiệm quản lý nhà nước về XLVPHC và thi hành pháp luật về XLVPHC, tuy nhiên, thực tiễn thực hiện công tác này cũng còn gặp những khó khăn, vướng mắc, hạn chế, bất cập nhất định, như:
- Việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC:
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2016/NĐ-CP quy định về xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC, có hiệu lực từ ngày 15/5/2016, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 13/2016/TT-BTP ngày 30/12/2016 hướng dẫn thực hiện. Tuy nhiên, đến nay, cấp Trung ương vẫn chưa ban hành, phê duyệt Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC. Do đó, các địa phương gặp khó khăn trong việc tổ chức thực hiện Nghị định số 20/2016/NĐ-CP và Thông tư số 13/2016/TT-BTP.
- Công tác thống kê, báo cáo về XLVPHC:
+ Về thời hạn gửi báo cáo: Nghị định số 09/2019/NĐ-CP ngày 24/01/2019 của Chính phủ quy định thời gian lấy số liệu “
Báo cáo định kỳ hằng năm: Tính từ ngày 15 tháng 12 năm trước kỳ báo cáo đến ngày 14 tháng 12 của kỳ báo cáo”. Tuy nhiên, Nghị định số 09/2019/NĐ-CP không quy định cụ thể thời hạn địa phương gửi báo cáo về Bộ là ngày nào (cụ thể trong trường hợp này là UBND tỉnh gửi báo cáo theo dõi thi hành pháp luật về XLVPHC về Bộ Tư pháp là ngày nào thì không có nội dung nào quy định). Trong khi tại khoản 33 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định: “Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc báo cáo công tác thi hành pháp luật về XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của địa phương và gửi Bộ Tư pháp trước ngày 20 tháng 7 đối với báo cáo 06 tháng; trước ngày 20 tháng 01 năm tiếp theo đối với báo cáo hàng năm”.
+ Khoản 31 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung các
khoản 2, 3, 4 và bổ sung khoản 5 vào
Điều 25 quy định việc báo cáo tình hình xử phạt VPHC đối với công tác thi hành quyết định xử phạt bao gồm cả nội dung
số vụ bị khiếu nại, khởi kiện (khoản 2 điểm c). Đồng thời, tại khoản 1 Điều 15 Luật XLVPHC quy định: “
Cá nhân, tổ chức bị XLVPHC có quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định XLVPHC theo quy định của pháp luật.”. Tuy nhiên, tại điểm c khoản 1 Điều 11 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP ngày 12/02/2020 của Chính phủ về kiểm tra, xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về XLVPHC lại không có nội dung kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong XLVPHC.
 |
|
 |
3. Khó khăn về các biểu mẫu trong xử phạt VPHC:
- Theo quy định tại Điều 32 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP): “Căn cứ vào mẫu biên bản, mẫu quyết định ban hành kèm theo Nghị định này, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể ban hành các mẫu biên bản, quyết định phù hợp để sử dụng trong ngành, lĩnh vực, địa phương mình và quy định việc quản lý và sử dụng các mẫu biên bản, quyết định trong XLVPHC. Trong trường hợp cần thiết, để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có thể ban hành các mẫu biên bản, quyết định và các mẫu biểu cần thiết khác sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Tư pháp” Do quy định này nên một số ngành đã ban hành biểu mẫu biên bản, quyết định để sử dụng trong ngành mình ví dụ như:
+ Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư số 78/2019/TT-BQP ngày 11/6/2019 của Bộ Quốc phòng quy định về ban hành, quản lý và sử dụng biểu mẫu trong XLVPHC thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 3 Thông tư này quy định: “Biểu mẫu trong XLVPHC được ban hành, quản lý và sử dụng thống nhất cho các cơ quan, đơn vị, người có thẩm quyền lập biên bản, người có thẩm quyền xử phạt VPHC thuộc Bộ Quốc phòng”. Theo Điều này thì biểu mẫu được ban hành kèm theo Thông tư này được sử dụng thống nhất cho các cơ quan, đơn vị, người có thẩm quyền lập biên bản, người có thẩm quyền xử phạt VPHC thuộc Bộ Quốc phòng. Trong trường hợp, Chủ tịch UBND các cấp (không phải là cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng) có thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực quốc phòng thì có áp dụng các biểu mẫu theo Thông tư số 78/2019/TT-BQP hay áp dụng các biểu mẫu theo quy định tại Nghị định số 97/2017/NĐ-CP,…
+ Việc áp dụng mẫu biên bản, mẫu quyết định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt nhiều đơn vị thực hiện theo Thông tư 05/2014/TT-BGTVT ngày 31/3/2014 của Bộ Giao thông vận tải về ban hành mẫu biên bản, mẫu quyết định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt (không thống nhất với Nghị định 81/2013/NĐ-CP). Từ ngày 15/8/2014 đến nay, biểu mẫu để sử dụng khi xử phạt VPHC thuộc thẩm quyền của Công an nhân dân lại áp dụng theo Thông tư số 34/2014/TT-BCA ngày 15/8/2014 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về các biểu mẫu để sử dụng khi xử phạt VPHC thuộc thẩm quyền của Công an nhân dân và Thông tư số 07/2019/TT-BCA ngày 20/3/2019 của Bộ Công an quy định về các biểu mẫu sử dụng để xử phạt VPHC thuộc thẩm quyền của công an nhân dân.
- Cách hướng dẫn ghi trong Mẫu số 01/QĐ Quyết định xử phạt VPHC ban hành kèm theo Nghị định số 125/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC về thuế, hóa đơn không thống nhất với các hướng dẫn ghi tại Mẫu quyết định số 2 ban hành kèm theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP và điểm d khoản 1 Điều 68 Luật Xử lý VPHC năm 2012, cụ thể:
+ Về cơ quan chủ quản và tên cơ quan ban hành quyết định: Mẫu số: 01/QĐ ban hành kèm theo Nghị định số 125/2020/NĐ-CP hướng dẫn: Ghi tên theo hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính quy định tại Nghị định số 30/2020/NĐ-CP. Trong khi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP hướng dẫn cách ghi: Ghi tên cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt VPHC. Trường hợp người ra quyết định xử phạt VPHC là Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thì ghi tên cơ quan theo hướng dẫn về thể thức của Bộ Nội vụ.
+ Về ghi thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt: Mẫu số: 01/QĐ ban hành kèm theo Nghị định số 125/2020/NĐ-CP hướng dẫn: Ghi thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt, trường hợp người có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt không phải là người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì không ghi vào chỉ tiêu này; Trong khi mẫu quyết định số 2 ban hành kèm theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP không có nội dung này.
+ Về ghi chức danh của người có thẩm quyền xử phạt: Mẫu số: 01/QĐ ban hành kèm theo Nghị định số 125/2020/NĐ-CP: Bổ sung nội dung “Theo đề nghị………” và hướng dẫn cách ghi là: “Chỉ tiêu này áp dụng đối với trường hợp người có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt là người đứng đầu cơ quan, tổ chức” các trường hợp khác thì ghi: “Tôi:....... Chức vụ: .........”; Nghị định số 97/2017/NĐ-CP hướng dẫn cách ghi: Ghi chức danh và cơ quan của người ra quyết định xử phạt, VPHC.
- Quyết định tạm giữ, Biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC, giấy phép, chứng chỉ hành nghề (Mẫu quyết định số 19, Mẫu biên bản số 7) quy định tại Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ, nội dung mẫu có mục ký tên, đóng dấu của người ra quyết định tạm giữ. Đây cũng là một quy định khó, bởi vì khi thi hành nhiệm vụ ở địa bàn xa trụ sở, cơ quan nếu phát hiện vụ việc vi phạm thuộc phạm vi thi hành công vụ của mình mà cần phải tạm giữ tang vật, phương tiện hoặc giấy phép, chứng chỉ hành nghề nhưng không có thẩm quyền tạm giữ, và ngược lại người có thẩm quyền tạm giữ nêu trên không thể có mặt ngay tại hiện trường xảy ra vụ việc và mang theo con dấu để ký tên, đóng dấu vào quyết định và biên bản tạm giữ được. Do đó, gây khó khăn cho lực lượng thi hành công vụ.
- Trong quá trình lập hồ sơ xử phạt VPHC có những vụ việc không thể lập biên bản VPHC ngay mà cần phải được lập biên bản sự việc, biên bản ghi lời khai để làm cơ sở cho việc lập biên bản VPHC…Tuy nhiên, các biểu mẫu tại Nghị định số 97/2017/NĐ-CP chưa quy định các mẫu biên bản này, dẫn đến tình trạng mỗi địa phương thực hiện theo một mẫu khác nhau.
- Về thể thức và kỹ thuật trình bày của các biểu mẫu kèm theo Nghị định số 91/2017/NĐ-CP hiện nay không phù hợp với thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính quy định tại Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2020 về công tác văn thư, gây ra sự lúng túng cho địa phương trong quá trình triển khai thực hiện.
- Trong Nghị định không quy định mẫu quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả nên gây nhiều khó khăn trong việc thực hiện tại các địa phương.
- Hiện nay, chưa có biểu mẫu dùng để “ghi lời khai” đối với những trường hợp VPHC, nên khi làm việc với đối tượng vi phạm, Công an một số địa phương, đơn vị sử dụng “Biên bản ghi lời khai” theo biểu mẫu tố tụng hình sự... (còn nữa)
Hà My
[1] Khoản 1 Điều 72 Luật XLVPHC quy định: “Trường hợp VPHC về an toàn thực phẩm; chất lượng sản phẩm, hàng hóa; dược; khám bệnh, chữa bệnh; lao động; xây dựng; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế; bảo vệ môi trường; thuế; chứng khoán; sở hữu trí tuệ; đo lường; sản xuất, buôn bán hàng giả mà gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội thì cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt VPHC có trách nhiệm công bố công khai về việc xử phạt”.