Từ năm 2019 đến nay, phần lớn địa phương vẫn giữ nguyên mô hình, một số địa phương sát nhập công tác XLVPHC và theo dõi thi hành pháp luật cùng Phòng về công tác xây dựng VBQPPL, hoặc Phòng phổ biến giáo dục pháp luật hoặc Phòng Thanh tra, Phòng pháp chế, Phòng Nghiệp vụ 1 (bao gồm công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp). Nhân sự bị cắt giảm, lực lượng cán bộ làm công tác XLVPHC chuyên trách còn mỏng về lực lượng thực thi nhiệm vụ, địa bàn quản lý rộng và một số lĩnh vực phức tạp; ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện nhiệm vụ về quản lý XLVPHC trên thực tế. Việc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng liên quan đến thực hiện nhiệm vụ xử lý vi phạm hành chính chủ yếu do Sở Tư pháp tham mưu UBND tỉnh thực hiện. Đối với các ngành việc tập huấn chưa đáp ứng kịp so với yêu cầu công tác, thường được tổ chức lồng ghép với những nội dung, lĩnh vực công tác khác, chưa tập trung chuyên sâu ở từng lĩnh vực, do kinh phí phục vụ cho công tác này còn rất hạn chế.
2. Về các điều kiện đảm bảo thi hành,
Việc đầu tư, trang bị, phương tiện kỹ thuật, công cụ hỗ trợ để xác định hành vi vi phạm trong những lĩnh vực như môi trường, an toàn thực phẩm, giao thông,… cũng như cơ sở vật chất phục vụ việc tổ chức thực hiện Luật
xử lý vi phạm hành chính và các Nghị định có liên quan, như: Buồng tạm giữ người theo thủ tục hành chính, kho lưu giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính còn hạn chế, chưa được xây dựng đầy đủ theo quy định.
3. Việc phối hợp giữa các ngành, cơ quan chức năng trong xử lý vi phạm
Công tác phối hợp một vài cơ quan, đơn vị trong việc triển khai công tác thi hành pháp luật về quản lý
xử lý vi phạm hành chính có lúc, có nơi, có việc chưa chặt chẽ và kịp thời; còn mất nhiều thời gian trao đổi thông tin, tài liệu… khi có các vụ việc liên quan đến nhiều ngành, địa phương.
4
. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập khác
- Khoản 2 Điều 57 Luật X
ử lý vi phạm hành chínhquy định hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính phải được đánh bút lục: “
Việc xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản phải được người có thẩm quyền xử phạt lập thành hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính. Hồ sơ bao gồm biên bản vi phạm hành chính, quyết định xử phạt hành chính, các tài liệu, giấy tờ có liên quan và phải được đánh bút lục.”. Thực tiễn các cơ quan có thẩm quyền xử phạt đã thực hiện việc đánh bút lục lưu trữ hồ sơ, tuy nhiên chưa có quy định cụ thể đánh bút lục như thế nào nên các cơ quan, đơn vị chưa thống nhất cách sắp xếp trình tự hồ sơ và đánh bút lục.
- Tiền thu từ xử phạt
vi phạm hành chính trên lĩnh vực an ninh trật tự do lực lương Công an xử phạt phải nộp vào ngân sách nhà nước và không được trích lại % để sử dụng vào mục đích
xử lý vi phạm hành chính như: Chi phí điều tra, xác minh, tạm giữ; chi phí mua tin; chi phí bồi dưỡng làm thêm giờ; in ấn biểu mẫu; chi mua sắm trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác phát hiện và
xử lý vi phạm hành chính… Do đó, gây rất nhiều khó khăn cho lực lượng Công an trong quá trình thực hiện công tác này.
- Thời hạn chốt số liệu, gửi báo cáo tập trung vào cuối năm (thời điểm tập trung báo cáo năm của hầu hết các lĩnh vực) giữa các cơ quan, địa phương quá ngắn dẫn đến tình trạng báo cáo gửi trễ hạn, việc tổng hợp số liệu thiếu chính xác.
- Một số trường hợp cá nhân vi phạm không có chỗ ở ổn định nên gặp khó khăn trong việc thực hiện quyết định; các quyết định có mức phạt tiền cao thường khó thi hành, do cá nhân, tổ chức có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có khả năng nộp phạt. Một số hành vi vi phạm như: Đánh bạc, trộm cắp tài sản theo quy định thì không được tạm giữ người nên khó khăn trong việc xác minh, xử lý. Một số hành vi không quy định cụ thể việc tịch thu tang vật như xâm hại sức khỏe, đánh nhau.
5. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
- Các điều kiện để đảm bảo thi hành pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính đã được quan tâm, phân bổ, tuy nhiên chưa tương xứng với nhiệm vụ được phân công như về số lượng biên chế, cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động chưa đáp ứng. Nhất là kinh phí tuyên truyền, tập huấn còn hạn chế.
- Tình hình
xử lý vi phạm hành chính trên các lĩnh vực trong thực tiễn rất phức tạp. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính liên quan đến hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội nhưng tính ổn định chưa cao thường xuyên bị sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế. Một số quy định trong văn bản quy phạm pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính chưa thống nhất, còn chồng chéo, mâu thuẫn với các văn bản khác và còn thiếu tính khả thi khi triển khai thực hiện. Một số quy định của Luật X
ử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 81/2013/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật X
ử lý vi phạm hành chính chưa rõ ràng, cụ thể, tính khả thi chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn, từ đó ảnh hưởng đến công tác thi hành pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính trên các lĩnh vực.
- Tại cấp cơ sở, công chức phụ trách nhiệm vụ đa số là thực hiện kiêm nhiệm, nhận thức quy định pháp luật của một số cán bộ, công chức về quản lý
xử lý vi phạm hành chính chưa đồng đều; ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cá nhân, tổ chức còn hạn chế hoặc vì lợi ích kinh tế mà có hành vi vi phạm pháp luật.
III. Đề xuất, kiến nghị
1. Giải pháp hoàn thiện thể chế
Qua tổng kết 8 năm thi hành Luật XLVPHC và Nghị định 81/2013/NĐ-CP và Nghị định 97/2017/NĐ-CP, Bộ Tư pháp cần tổng hợp các khó khăn vướng mắc và kiến nghị đề xuất của các địa phương để có thể tham mưu Chính phủ sửa đổi bổ sung, ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung) cho phù hợp với quy định của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật X
ử lý vi phạm hành chính và điều kiện thực tiễn, tạo cơ sở, điều kiện cho các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện theo quy định, cụ thể:
- Xem xét, hướng dẫn thống nhất về biểu mẫu và cách ghi các biểu mẫu liên quan đến xử phạt
vi phạm hành chính (như hướng dẫn Nghị định 97/2017/NĐ-CP và Nghị định số 125/2020/NĐ-CP) để đảm bảo địa phương thực hiện thống nhất. Bổ sung mẫu biên bản sự việc, mẫu biên bản ghi lời khai, đồng thời, xem xét sửa đổi nội dung mẫu biên bản có mục ký tên, đóng dấu của người ra quyết định tạm giữ tại biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện
vi phạm hành chínhC, giấy phép, chứng chỉ hành nghề
(Mẫu biên bản số 7) quy định tại Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ để đảm bảo tính khả thi trong thực tiễn thi hành nhiệm vụ.
- Ban hành văn bản hướng dẫn đối với các trường hợp quyết định xử phạt sai và hết thời hạn sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 8 và khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP và quy định bổ sung hướng xử lý đối với trường hợp xác định sai đối tượng bị xử phạt
vi phạm hành chính.
- Bổ sung nội dung số vụ khiếu nại, khởi kiện trong việc thi hành quyết định xử phạt VPHC tại điểm c khoản 1 Điều 11 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP ngày 12/02/2020 để đảm bảo tính thống nhất với Nghị định số 97/2017/NĐ-CP và Luật X
ử lý vi phạm hành chính.
- Ban hành văn bản hướng dẫn hoặc văn bản thay thế, sửa đổi Thông tư số 16/2018/TT-BTP cần quy định cụ thể mốc thời gian chốt số liệu báo cáo định kỳ, thời hạn gửi báo cáo định kỳ công tác này về Bộ Tư pháp để địa phương chủ động thực hiện.
- Bộ Tư pháp xem xét phối hợp với Bộ Nội vụ quy định hướng dẫn lập và bảo quản hồ sơ xử phạt
vi phạm hành chính. Đồng thời, hướng dẫn cụ thể việc đánh bút lục và lưu trữ hồ sơ đã được quy định tại khoản 2 Điều 57 Luật X
ử lý vi phạm hành chính để đảm bảo việc đánh bút lục và lưu hồ sơ được thực hiện thống nhất.
- Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ liên quan xây dựng phần mềm cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính làm cơ sở cho việc lưu trữ thông tin và chia sẻ, cung cấp thông tin các đối tượng vi phạm hành chính, xác định số lần vi phạm để xử lý đúng theo pháp luật; thường xuyên mở các lớp tập huấn chuyên sâu từng lĩnh vực nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng cho lực lượng trực tiếp thực hiện công tác
xử lý vi phạm hành chính. Ban hành Thông tư hướng dẫn công tác thống kê về
xử lý vi phạm hành chính để các bộ, ngành, địa phương thực hiện thống nhất.
- Bổ sung hướng dẫn thế nào là “
vụ việc có tình tiết phức tạp” được quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật X
ử lý vi phạm hành chính.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp Luật Xử lý vi phạm hành chính
- Cần đảm bảo đủ nguồn lực về điều kiện cơ sở vật chất, nhân lực cho công tác
xử lý vi phạm hành chính, đặc biệt là kinh phí cho hoạt động kiểm tra, điều tra, khảo sát, thống kê
; tăng cường hơn nữa việc đầu tư các phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ phục vụ cho công tác thi hành pháp luật về XLVPHC… Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản nghiệp vụ chuyên ngành, tập trung vào công tác xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính cho đội ngũ quản lý và trực tiếp làm công tác
xử lý vi phạm hành chính.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đồng thời đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền các quy định về
xử lý vi phạm hành chínhđảm bảo phù hợp với từng nhóm đối tượng ở các khu vực khác nhau, nhằm nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công tác thi hành pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính, qua đó nâng cao ý thức, trách nhiệm của công chức thực hiện công tác
xử lý vi phạm hành chính để công tác này đi vào nề nếp, chất lượng, đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Xử lý nghiêm các cá nhân, đơn vị có hành vi vi phạm, để xảy ra sai sót, hạn chế theo quy định; nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan của người có thẩm quyền
xử lý vi phạm hành chính.
- Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả phối hợp giữa các Sở, ngành trong công tác quản lý và
xử lý vi phạm hành chính, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn; X
ây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, trong đó cần làm rõ một số nội dung về phối hợp, cung cấp thông tin, trao đổi văn bản, tài liệu, báo cáo, số liệu thống kê; phối hợp kiểm tra; xây dựng văn bản có liên quan...
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là công tác xây dựng, nhập dữ liệu, tra cứu phần mềm cơ sở dữ liệu quốc gia về
xử lý vi phạm hành chính. Điều này góp phần quan trọng cho việc
xử lý vi phạm hành chính được thực hiện khoa học, chính xác và nhanh chóng./.