Vị trí, vai trò của Thẩm tra viên trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

Vị trí, vai trò của Thẩm tra viên trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự

         Hiện nay, thi hành án dân sự chưa được xem là ngành độc lập và còn nhiều tranh luận trong việc xác định hoạt động nghiệp vụ thi hành án dân sự có phải là giai đoạn tố tụng hay chỉ mang tính hành chính tư pháp đơn thuần. Dù còn nhiều quan điểm khác nhau như vậy, nhưng xét ở khía cạnh pháp lý, thi hành án dân sự cũng có những nét tương đồng với các ngành khác trong hệ thống tư pháp là Tòa án và Viện kiểm sát khi cũng phải thực hiện những hoạt động mang tính thủ tục tố tụng.
        Chính vì vậy, trong những năm qua, cùng với Tòa án và Viện kiểm sát, Thi hành án dân sự đã được Quốc hội, Chính phủ đặc biệt quan tâm. Nhờ vậy, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức thi hành án dân sự đang ngày càng mở rộng và tăng cường, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Cùng với đó là hệ thống quản lý tổ chức của thi hành án dân sự ngày càng được hoàn thiện. Từ chổ tổ chức thi hành án chỉ do Thừa phát lại, Ban Tư pháp xã (1945-1950), Thẩm phán huyện (1950-1959), nhân viên thi hành án, Chấp hành viên đặt tại các Tòa án địa phương (1960-1993) thực hiện, đến nay một hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự cơ bản hoàn thiện, được sắp xếp từ Trung ương (Bộ Tư pháp) đến địa phương tương ứng với địa giới hành chính (cấp tỉnh và huyện). Đồng thời đó, các chức danh tư pháp trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự cũng từng bước được quy định với những điều kiện chặt chẽ, khắt khe hơn nhằm đáp ứng với yêu cầu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu xu hướng phát triển mới của xã hội.


         Do đó, trong các văn bản quy phạm pháp luật (Luật và Nghị định) để điều chỉnh hoạt động thi hành án dân sự cũng dành vị trí quy định cũng như số lượng điều luật nhất định để quy định về hệ thống tổ chức và từng vị trí chức danh trong cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự. Cụ thể tại Chương II của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 (Luật Thi hành án dân sự năm 2008) dành 11 Điều (từ Điều 13 đến Điều 23) và Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP) cũng dành 21 Điều (từ Điều 52 đến Điều 72) để quy định rõ về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án cũng như quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức các chức danh trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự. Không những vậy, ở góc độ phục vụ cho công tác quản lý, chỉ riêng trong năm 2017, Bộ Tư pháp đã ban hành hai văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức Thông tư: (i) Thông tư số 02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số nội dung quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc hệ thống tổ chức thi hành án dân sự (Thông tư số 02/2017/TT-BTP) và (ii) Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 5/4/2017 của Bộ Tư pháp quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệm vụ các ngạch công chức chuyên ngành thi hành án dân sự (Thông tư số 03/2017/TT-BTP) để quy định cụ thể hơn đối với các chức danh trong hệ thống thi hành án dân sự. Đây được coi là sự quan tâm đặc biệt của Lãnh đạo Bộ Tư pháp đối với công tác tổ chức cán bộ của hệ thống thi hành án dân sự.
        Cùng với Chấp hành viên, Thẩm tra viên là một trong hai chức danh tư pháp đóng vai trò quan trọng trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự từ Trung ương đến địa phương được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật.
        Tại khoản 1 Điều 66 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định: Thẩm tra viên là công chức, có nhiệm vụ giúp Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan quản lý, cơ quan thi hành án trong quân đội thực hiện nhiệm vụ thẩm tra thi hành án và các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật”.
        Tại Điều 67 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định Thẩm tra viên có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:
       “1. Thực hiện việc thẩm tra, kiểm tra những vụ việc thi hành án đã và đang thi hành; thẩm tra xác minh các vụ việc có đơn thư khiếu nại, tố cáo theo sự chỉ đạo của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự; thẩm tra thống kê, báo cáo, dữ liệu thi hành án dân sự và những hồ sơ, tài liệu khác có liên quan đến công tác thi hành án dân sự.
        2. Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để xác minh, kiểm tra và đề xuất biện pháp giải quyết theo nhiệm vụ được phân công.
       3. Tham mưu cho Thủ trưởng cơ quan trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện Kiểm sát nhân dân theo thẩm quyền.
        4. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Thủ trưởng cơ quan giao.
        Hay tại khoản 2 Điều 10 Thông tư số 03/2017/TT-BTP quy định Thẩm tra viên có nhiệm vụ:
“………………………………………………………….
        2. Nhiệm vụ
        a) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 67 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP;
       b) Thực hiện thẩm tra hồ sơ các vụ việc đã và đang thi hành do Chấp hành viên sơ cấp thực hiện theo kế hoạch được duyệt hoặc theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự, đề xuất hướng giải quyết và chịu trách nhiệm về ý kiến đề xuất của mình;
        c) Thẩm tra thống kê, báo cáo, dữ liệu thi hành án dân sự của Chấp hành viên sơ cấp, của các cơ quan thi hành  án dân sự trực thuộc;
       d) Tham mưu giúp Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự: Trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo thẩm quyền đối với những vụ việc đơn giản; tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với những vụ việc đơn giản thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự;
        đ) Thẩm tra, kiểm tra, tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác tổ chức cán bộ trong hệ thống tổ chức thi hành án dân sự;
       e) Thẩm tra, kiểm tra, tổng hợp báo cáo liên quan đến công tác thi hành án dân sự, báo cáo kế toán nghiệp vụ thi hành án dân sự của các đơn vị trực thuộc;
      g) Tham mưu xây dựng dự án luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của hệ thống tổ chức thi hành án dân sự;
       h) Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác thẩm tra theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan;
       i) Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để thực hiện công tác thẩm tra các vụ việc được phân công theo quy định của pháp luật;
……………………………………………………………………………..”.


       Các quy định này cho thấy, Thẩm tra viên trong các cơ quan thi hành án dân sự đóng vai trò rất quan trọng trong việc tham mưu giúp thủ trưởng thực hiện chức năng “thẩm tra” ở tất cả các hoạt động thi hành án dân sự từ công tác nghiệp vụ cho đến việc đột xuất. Trong khi đó, theo định nghĩa từ điển Tiếng Việt, “thẩm tra” tức là điều tra, xem xét lại xem có đúng, có chính xác như đã biết không[1]? Điều này có nghĩa là để làm được công tác thẩm tra đòi hỏi người thực hiện nhiệm vụ này phải giỏi hơn người trực tiếp làm công tác chuyên môn. Thẩm tra viên trong cơ quan thi hành án dân sự cũng không là ngoại lệ. Từ các quy định liên quan đến nhiệm vụ của Thẩm tra viên có thể suy ra rằng, để phù hợp thì các quy định khác liên quan đến Thẩm tra viên như tiêu chuẩn bổ nhiệm về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ hay về trình độ đào tạo, bồi dưỡng cũng như kinh nghiệm thâm niên công tác đều phải yêu cầu khó và chặt chẽ hơn so với các chức danh khác (cụ thể là Chấp hành viên). Bởi muốn thực hiện được nhiệm vụ phát hiện ra cái chưa đúng, còn thiếu sót hay sai phạm của Chấp hành viên hoặc tham mưu hướng giải quyết khắc phục cho Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự đòi hỏi Thẩm tra viên phải là người có năng lực giỏi hơn Chấp hành viên.
                                                        (Bài đăng trong Số chuyên đề tháng 3/2018- Tạp chí Dân chủ và pháp luật)
                                                                                                              Thùy Dung
 
[1] http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Th%E1%BA%A9m_tra