Một số quy định pháp luật về chức danh Thẩm tra viên
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

Một số quy định pháp luật về chức danh Thẩm tra viên

        Trong thời gian qua, bằng những việc đã làm và kết quả đem lại, Thẩm tra viên đã ngày càng chứng minh được vị trí, vai trò quan trọng của mình và sự cần thiết tồn tại của chức danh này trong các cơ quan thi hành án dân sự. Quan trọng vậy nhưng khi đối chiếu các quy định pháp luật liên quan đến chức danh Thẩm tra viên như: Điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh tư pháp và chức danh quản lý… thấy rằng có sự chưa tương ứng, xứng tầm với chức năng, nhiệm vụ đã đề ra từ đó dẫn đến trên thực tế, vai trò và vị trí của Thẩm tra viên chưa được coi trọng so với Chấp hành viên.
        Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin bàn luận về một số quy định liên quan đến chức danh Thẩm tra viên trong cơ quan thi hành án dân sự so với Chấp hành viên khi được áp dụng trên thực tế. Cụ thể:
       Một là, về việc quy định các chức danh Thẩm tra viên, Chấp hành viên trong các văn bản quy phạm pháp luật.
        Trong khi chức danh Chấp hành viên được Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định rõ từ “khái niệm” đến “những việc không được làm” tại các điều từ Điều 17 đến Điều 21, thì Thẩm tra viên, dù cũng là chức danh tư pháp trong cơ quan thi hành án dân sự nhưng mới chỉ được quy định dừng lại dưới góc độ Nghị định và Thông tư hướng dẫn. Tức là xét ở góc độ văn bản quy phạm pháp luật, Thẩm tra viên bị quy định ở văn bản thấp hơn Chấp hành viên. Điều này có thể dễ dẫn đến cách hiểu theo hướng không đúng hoặc có sự so sánh khi cho rằng Thẩm tra viên không phải là một chức danh tư pháp và có một vị trí thấp hơn so với Chấp hành viên trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự. Như vậy là có sự bất cập với nhiệm vụ của Thẩm tra viên ngay từ việc không được quy định trong Luật. Mặt khác, khi đối chiếu với các quy định liên quan đến hệ thống cơ quan Tòa án và Viện kiểm sát thì việc quy định như hiện nay của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 liên quan đến các chức danh giữa Thẩm tra viên với Chấp hành viên là chưa có sự phù hợp. Bởi theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Thẩm tra viên (Tòa án) và Kiểm tra viên (Viện kiểm sát) được quy định ngay trong Luật và xác định rõ là một trong những chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng cùng với các chủ thể tiến hành tố tụng khác của hệ thống cơ quan Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.


        Hai là, liên quan đến tiêu chuẩn bổ nhiệm Thẩm tra viên so với Chấp hành viên.
       Theo quy định tại khoản 3 Điều 7 và khoản 3 Điều 10 Thông tư số 03/2017/TT-BTP, bên cạnh các tiêu chuẩn chung về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ mang tính định tính như: Nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên để vận dụng vào công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; Nắm vững các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo và nghiệp vụ thẩm tra, kiểm tra thi hành án dân sự, nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo; Nắm được tình hình kinh tế, xã hội ở địa phương liên quan đến công tác thi hành án dân sự; Có năng lực phối hợp với các đơn vị, cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; Nắm vững quy trình giải quyết công việc, có kỹ năng soạn thảo văn bản và thuyết trình các vấn đề được giao nghiên cứu, tham mưu…, thì để được bổ nhiệm vào chức danh Chấp hành viên sơ cấp, công chức phải tham dự kỳ thi tuyển vào ngạch Chấp hành viên sơ cấp. Điều này có nghĩa là, cho dù công chức đang giữ ngạch Chuyên viên đã đáp ứng đủ các tiêu chuẩn chung mang tính định tính (như đã nêu) cũng như định lượng về thời gian công tác pháp luật 03 năm (tương đương 36 tháng) cũng chưa thể đương nhiên được bổ nhiệm Chấp hành viên vì phải thông qua kỳ thi tuyển do Bộ Tư pháp tổ chức.
        Trong khi đó, quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm đối với Thẩm tra viên thì khác, chỉ cần công chức đang giữ ngạch Chuyên viên đã đáp ứng đủ các tiêu chuẩn chung mang tính định tính cũng như định lượng về thời gian công tác pháp luật 03 năm (tương đương 36 tháng) sẽ có thể được đề nghị bổ nhiệm vào ngạch Thẩm tra viên mà không cần phải trãi qua kỳ thi tuyển như Chấp hành viên. Như vậy, so với quy định về chức năng, nhiệm vụ thì quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh Thẩm tra viên lại có phần đơn giản hơn Chấp hành viên. Đây là điều hoàn toàn nghịch lý và không phù hợp.


        Ba là, Thẩm tra viên trong mối quan hệ thẩm tra hồ sơ của Chấp hành viên giữ vị trí Lãnh đạo (Cục hoặc Chi cục).
        Dưới góc độ quản lý hành chính, Thẩm tra viên là một công chức và đương nhiên là người dưới quyền, phải chịu sự quản lý, chỉ đạo của Lãnh đạo Cục hoặc Chi cục. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải là Chấp hành viên. Một khi là Chấp hành viên, các chủ thể này cũng có thể phải trực tiếp thực hiện giải quyết hồ sơ thi hành án. Do đó, ở góc độ thực tiễn, trong chừng mực nào đó, Thẩm tra viên sẽ rất khó thực hiện việc kiểm tra hồ sơ cũng như mạnh dạn chỉ ra các sai sót trong hồ sơ do các Chấp hành viên giữ vị trí quản lý lãnh đạo trực tiếp thực hiện (nếu có phát hiện sai sót). Hoăc khi đã phát hiện và chỉ ra vi phạm thì không phải Thẩm tra viên nào cũng có đủ bản lĩnh về nghiệp vụ và kinh nghiệm để bảo vệ chính kiến của mình đến cùng.
        Bốn là, liên quan đến các tiêu chuẩn để được quy hoạch và bổ nhiệm vào các chức danh quản lý cấp Lãnh đạo Cục và Chi cục.
        Đối với tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh Lãnh đạo cấp Chi cục thi hành án dân sự, khoản 2 Điều 17, khoản 2 Điều 18 Thông tư số 02/2017/TT-BTP quy định:
“………………………………….
2. Tiêu chuẩn chức danh:
a) Đáp ứng các tiêu chuẩn của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện theo quy định của Luật thi hành án dân sự, khoản 1 Điều 72 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và quy định khác có liên quan;
……………………………………………………………………….”.
Đối với tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh Lãnh đạo cấp Cục thi hành án dân sự, khoản 2 Điều 5 và khoản 2 Điều 6 Thông tư số 02/2017/TT-BTP quy định:
“………………………………….
2. Tiêu chuẩn chức danh:
a) Đáp ứng các tiêu chuẩn của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh theo quy định của Luật thi hành án dân sự, khoản 2 Điều 72 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và quy định khác có liên quan;
……………………………………………………………………….”.
        Trong khi đó, cùng với các tiêu chuẩn khác, điểm a khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 72 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định tiêu chuẩn để bổ nhiệm các chức danh Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự phải là: “Chấp hành viên sơ cấp trở lên (đối với Chi cục trưởng và Phó Chi cục trưởng)” và “Chấp hành viên trung cấp trở lên (đối với Cục trưởng và Phó cục trưởng”).
        Với những quy định này, nếu công chức được bổ nhiệm giữ chức danh Thẩm tra viên thì sẽ không có cơ hội để được quy hoạch cũng như bổ nhiệm vào các vị trí chức danh quản lý trong cơ quan thi hành án dân sự. Vì vậy, đây cũng được là điểm mâu thuẫn, bất hợp lý cần có sự quan tâm hơn so với vị trí quan trọng của Thẩm tra viên theo chức năng, nhiệm vụ được giao.


        Năm là, liên quan đến chế độ giữa Thẩm tra viên và Chấp hành viên.
        Nhiệm vụ, chức năng quan trọng thì đi kèm với đó là trách nhiệm cũng nặng hơn. Do vậy, nếu theo quy luật thông thường, với trách nhiệm của Thẩm tra viên như đã phân tích thì chế độ phụ cấp của chức danh này cũng phải có sự tương xứng. Vấn đề này cũng đã được Chính phủ quan tâm bằng việc quy định cho Thẩm tra viên được hưởng phụ cấp trách nhiệm nghề giống như Chấp hành viên.
       Tuy nhiên, Điều 2 Quyết định số 27/2012/QĐ-TTg ngày 21/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Chấp hành viên, Công chứng viên, Thẩm tra viên và Thư ký thi hành án quy định:
“……………………………………………………………………………….
Điều 2. Mức phụ cấp trách nhiệm theo nghề
Chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề tính theo tỷ lệ % mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có) được quy định như sau:
1. Mức 15% áp dụng đối với Thẩm tra viên cao cấp thi hành án và Công chứng viên.
2. Mức 20% áp dụng đối với Chấp hành viên cao cấp, Thẩm tra viên chính thi hành án, Thư ký thi hành án và Thư ký trung cấp thi hành án.
3. Mức 25% áp dụng đối với Chấp hành viên trung cấp và Thẩm tra viên thi hành án.
4. Mức 30% áp dụng đối với Chấp hành viên sơ cấp.
       Xét về phụ cấp trách nhiệm giữa Thẩm tra viên và Chấp hành viên tại khoản 3 và 4 Điều này có sự chênh lệch. Trong khi mức phụ cấp trách nhiệm theo nghề tính theo tỷ lệ % mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có) của Thẩm tra viên ở mức cao nhất chỉ có 25% thì Chấp hành viên là 30%. Điều này cũng có thể là một điểm cần xem xét trong tổng thể chức năng, nhiệm vụ của Thẩm tra viên.
       Từ nhiều quy định còn chưa hợp lý của Thẩm tra viên so với chức năng và nhiệm vụ được giao nên dù chưa được thống kê, báo cáo chính thức nhưng tại các địa phương đang tồn tại một số thực trạng liên quan như: (i) Hầu như rất ít công chức có mong muốn phấn đấu để trở thành Thẩm tra viên so với Chấp hành viên. Hoặc nếu công chức đã là Thẩm tra viên nhưng còn trẻ và có năng lực sẽ đều cố gắng để trở thành Chấp hành viên mà không có sự gắn bó lâu dài hay tâm huyết dành cho công việc của Thẩm tra viên. Thực trạng này dẫn đến hệ quả là số lượng Thẩm tra viên trong cơ quan thi hành án dân sự còn thiếu nhiều, trung bình mỗi địa phương trong khu vực phía Nam (bao gồm cả cấp Cục và Chi cục cũng chỉ có khoảng 10 Thẩm tra viên)[1]. Đồng thời, kết quả công việc bị ảnh hưởng và chất lượng trong công tác chuyên môn sẽ không cao (vì vừa thiếu lại vừa thừa). (ii) Tại một số địa phương, Thẩm tra viên chỉ làm công việc đánh bút lục, sắp xếp hồ sơ cho phù hợp để đưa vào lưu trữ thay vì thực hiện nhiệm vụ quan trọng của mình là thẩm tra, kiểm tra và đề xuất hướng xử lý.
        Chính vì vậy, để khắc phục những tồn tại như hiện nay, thiết nghĩ Tổng cục Thi hành án dân sự sớm nghiên cứu để tham mưu cấp có thẩm quyền điều chỉnh lại kịp thời một số quy định cho phù hợp với các chức danh khác trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự. Từ đó tạo cơ chế và động lực để cho Thẩm tra viên an tâm công tác và gắn bó lâu dài với chức danh đã được bổ nhiệm.
                      (Bài đăng trong Số chuyên đề tháng 3/2018- Tạp chí Dân chủ và pháp luật)
                                                                                                                                    Thùy Dung
 
[1] Theo Báo cáo số 345/BC-CCTPN ngày 18/10/2017 của Cục Công tác phía Nam, hiện nay số lượng Thẩm tra viên trong Khu vực phía Nam (gồm 25 tỉnh, thành phố từ Phú Yên đến Cà Mau) chỉ có 262 người.