Một số khó khăn và kiến nghị trong việc cắt giảm chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

Một số khó khăn và kiến nghị trong việc cắt giảm chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật

Năm 2019 năng lực cạnh tranh của Việt Nam xếp thứ 67/141 nước, tăng 10 bậc so với năm 2018 (xếp thứ 77/140 nước), xếp hạng chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật (chỉ số B1) năm 2019 đạt 39.8/100 điểm xếp hạng thứ 79/141 nước, tăng 17 bậc so với năm 2018 (34.6/100 điểm, xếp thứ 96/140 nước). Tuy nhiên, chỉ số B1 của Việt Nam vẫn chưa đạt được điểm số trung bình theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (3.5 trên thang điểm 7) và Việt Nam vẫn nằm trong top các quốc gia có vị trí xếp thứ hạng thấp (79/141 quốc gia). Nguyên nhân là do chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về nhân sự và hạn chế trong hệ thống pháp luật. Bởi vậy, trong thời gian tới, Việt Nam vẫn cần tiếp tục quan tâm, cải thiện chỉ số này.


        Khó khăn về thể chế
       Thể chế quy định chỉ số B1 chưa hoàn thiện, có sự chồng lấn với các chỉ số khác như chỉ số cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính, chỉ số cạnh tranh CPI. Chi phí tuân thủ pháp luật của người dân và doanh nghiệp được quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, chưa có hướng dẫn cụ thể, thống nhất, do đó nhiều địa phương còn khá lúng túng trong việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đạt được mục tiêu nâng hạng Chỉ số B1 theo yêu cầu.
        Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thường xuyên thay đổi; một số quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn chồng chéo, chưa rõ ràng. Một số văn bản quy phạm pháp luật của trung ương có quy định về thủ tục hành chính thường xuyên thay thế, sửa đổi, bổ sung gây khó khăn, mất nhiều thời gian để rà soát, triển khai trên thực tế, đồng thời nhiều quy định chưa rõ ràng về mặt nội dung nên dẫn đến quá trình áp dụng tại địa phương còn nhiều khó khăn, lúng túng;
        Mặc dù Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt việc thực hiện cắt giảm điều  kiện đầu tư kinh doanh nhưng trên thực tế việc cắt giảm, sửa đổi vẫn chưa thật sự tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp. Có rất nhiều các điều kiện kinh doanh được được quy định bằng các cụm từ rất thiếu rõ ràng, không cụ thể, gây lúng túng cho cơ quan nhà nước trong việc giải thích và áp dụng như: “đủ”, “sạch sẽ”, “thoáng mát”, “có đủ”, “thuận tiện”, “thích hợp”, “có đạo đức tốt’, “đủ sức khỏe”… Nhiều điều kiện đầu tư kinh doanh gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp, lồng ghép vào các quy chuẩn kỹ thuật. Chứng chỉ hành nghề chỉ do các cơ quan quản lý nhà nước cấp tồn tại ở hầu hết các lĩnh vực (nhất là trong lĩnh vực xây dựng). Nhiều điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới hình thức Giấy phép nhưng có thời hạn ngắn; đồng thời, yêu cầu doanh nghiệp phải xin phép lại sau khi hết hạn. Quy định này tạo ra một rủi ro lớn cho doanh nghiệp và tạo ra tâm lý không dám đầu tư lớn và dài hạn. Doanh nghiệp có thể phải tạm dừng hoạt động kinh doanh đang bình thường do phải chờ cấp giấy phép mới. Trong trường hợp này, doanh nghiệp bị thiệt hại vật chất không đáng có, do phải thực hiện một yêu cầu không hợp lý của quy định về điều kiện kinh doanh.
       Trong một số lĩnh vực, điển hình như lĩnh vực xây dựng, mặt dù tổ chức, cá nhân có nộp hồ sơ trực tuyến nhưng nhiều hồ sơ nộp không đúng thành phần hồ sơ. Do hồ sơ thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực xây dựng có kích thước và khối lượng hồ sơ giấy lớn (ví dụ bản vẽ thiết kế thường là khổ giấy từ A3 trở lên, nhiều quyển thuyết minh hồ sơ thẩm định từ 100 trang trở lên) nên việc số hóa giấy tờ rất tốn chi phí và thời gian. Đôi khi tổ chức, cá nhân không có đủ trang thiết bị để thực hiện và cách thức vào hệ thống dịch vụ công trực tuyến “Một cửa điện tử” để được thực hiện việc nộp hồ sơ trực tuyến rất khó thực hiện, người có quan tâm về công nghệ thông tin và tìm hiểu mới tiếp cận được nên tổ chức, cá nhân thường nộp bằng hình thức trực tiếp, không nộp trực tuyến hay qua dịch vụ bưu chính công ích.

 
 


        Khó khăn về nhân lực và kinh phí
        Nguồn lực về kinh phí và biên chế thực hiện công tác nâng xếp hạng chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật còn thiếu,  chưa đáp ứng yêu cầu triển khai công việc. Một số lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương còn chưa hiểu rõ và thực sự quan tâm tới công tác cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp nên chưa chỉ đạo kịp thời các cơ quan, đơn vị trực thuộc triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, quy định về việc thực hiện nội dung nâng xếp hạng chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật còn mới, chưa được tập huấn chuyên sâu nên quá trình thực hiện đang gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. Trong đó, các sở, ngành và địa phương chưa được tập huấn, đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đều là kiêm nhiệm, nhiều việc, chưa nắm bắt kịp thời các quy định về việc thực hiện nội dung nâng xếp hạng chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật dẫn đến thực hiện còn lúng túng.
        Chi phí đầu tư cho ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế, thiếu hạng mục chi cho ứng dụng công nghệ thông tin trong kinh phí hoạt động hàng năm của đơn vị như: bảo trì, bảo hành, thay thế thiết bị hư hỏng, phần mềm diệt vi rút có bản quyền, phí lắp đặt và thuê đường truyền ADSL tốc độ cao... 
        Khó khăn về tổ chức thi hành
        Một số Bộ, ngành còn chậm công khai thủ tục hành chính trên Cơ sở dữ liệu quốc gia dẫn đến khó khăn cho địa phương trong việc triển khai thực hiện. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước vẫn còn rời rạc, thiếu sự đồng bộ và chia sẻ, kết nối liên thông, đặc biệt là việc kết nối, liên thông với các hệ thống thông tin theo ngành dọc của Bộ, ngành trung ương; Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc công khai các loại thủ tục hành chính cũng như phối hợp, chia sẻ thông tin giữa cơ quan với doanh nghiệp chưa được nhịp nhàng và hiệu quả.
        Việc tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu và hướng dẫn người dân và doanh nghiệp biết và áp dụng các quy định pháp luật và thủ tục hành chính gặp khó khăn vì không có nguồn kinh phí thực hiện, trong khi các quy định này liên tục thay đổi, ban hành mới. Một số doanh nghiệp chưa chủ động, phối hợp tốt với chính quyền địa phương trong việc phản ánh, tố cáo đối với các hành vi tham nhũng, tiêu cực của cán bộ, công chức; cũng như đề xuất, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền những giải pháp có hiệu quả để nâng cao chất lượng làm giảm chi phí tuân thủ pháp luật.
        Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại một số nơi vẫn mang tính hình thức, chưa đạt hiệu quả cao do không bố trí được cán bộ chuyên trách, cán bộ còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Chưa huy động được nhiều chuyên gia pháp lý có nhiều kinh nghiệm, có khả năng trao đổi, giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp tại các lớp bồi dưỡng, hội nghị, đối thoại nhằm đáp ứng đúng và trúng nhu cầu hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp.
        Nhận thức của một số chủ doanh nghiệp về công tác thi hành pháp luật chưa cao, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp làm không đúng pháp luật, vi phạm pháp luật. Doanh nghiệp còn chưa chủ động tham gia cùng chính quyền trong việc phản ánh các quy định còn bất cập trên thực tế thi hành cũng như những vướng mắc gặp phải trong việc thi hành pháp luật, chưa phối hợp tốt với chính quyền trong việc phản ánh, kiến nghị đối với các hành vi tiêu cực của công chức cũng như đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật.
        Việc xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch của nhiều địa phương còn chậm so với yêu cầu; Chế độ báo cáo định kỳ hàng Quý chưa được thực hiện nghiêm túc, còn mang tính hình thức, đối phó, chất lượng báo cáo chưa cao, nội dung báo cáo còn chung chung, thiếu số liệu đánh giá; Mật độ báo cáo quá dầy, thời hạn gấp nên báo cáo nhiều khi chưa kịp thời do Sở Tư pháp chỉ là đầu mối tổng hợp thông tin các sở ngành khác.

 
 


        Một số kiến nghị
        Để tiếp tục kế thừa, phát huy và nhân rộng thành tựu, kết quả, đồng thời khắc phục những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật, cải thiện điểm số, duy trì thứ hạng chỉ số B1, các bộ, ngành và địa phương trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình cần tiếp tục tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đã được nêu ra tại Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ năm 2019, 2020, 2021 và các nhiệm vụ, giải pháp nêu tại Công văn số 702/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL ngày 15/3/2021 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn nâng xếp hạng chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật. Cụ thể, cần tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm sau: 
       a. Kiến nghị đối với Bộ Tư pháp
      - Nghiên cứu, hoàn thiện các quy định, hướng dẫn về chỉ số tuân thủ pháp luật để đồng bộ, dễ thực hiện, tránh chồng lắp với các chỉ số khác. Tăng cường công tác truyền thông nhằm tuyên truyền, quảng bá hoạt động của Chính phủ, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật. Xây dựng, phát hành, tổ chức tập huấn các quy định liên quan để địa phương dễ triển khai trên thực tế.
       - Phối hợp với các bộ, ngành tăng cường rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục hành chính không rõ ràng, các quy định về điều kiện kinh doanh không cần thiết nhằm tạo điều kiện tốt nhất để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
        - Chính phủ tăng cường chỉ đạo việc kết nối, chia sẻ dữ liệu quốc gia trong các ngành, lĩnh vực để việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành chính được hiệu quả hơn, góp phần giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp.
        - Quan tâm hơn nữa trong việc giải đáp những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ cho các cơ quan, đơn vị ở địa phương để việc tổ chức thực thi pháp luật được chính xác, thống nhất, đồng bộ nhằm làm giảm phí tuân thủ cho doanh nghiệp và người dân.
        b. Đối với các Sở Tư pháp
       Thứ nhất, Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý, đổi mới đồng bộ, toàn diện công tác xây dựng pháp luật trên cơ sở bám sát thực tiễn, đảm bảo hệ thống pháp luật đồng bộ, khả thi; Quan tâm lấy ý kiến các đối tượng có liên quan, bị tác động khi xây dựng pháp luật. Bên cạnh đó, cần nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm không có quy định mới chứa đựng các yêu cầu không hợp lý, cản trở điều kiện đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp, giảm thiểu chi phí tuân thủ pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới.
       Đặc biệt, phải tạo sự liên thông giữa hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật với hoạt động tổ chức thực thi pháp luật, theo đó, các bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao thường xuyên, kịp thời phối hợp chặt chẽ với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội doanh nghiệp để kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật cần bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới cho phù hợp với quy định của pháp luật, không gây ảnh hưởng, cản trở điều kiện đầu tư kinh doanh, không gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp, trong đó đặc biệt quan tâm, chú trọng đến việc bãi bỏ các quy định tạo ra chi phí tuân thủ pháp luật về gia nhập thị trường và về xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh.
        Thứ hai,  xây dựng bộ máy, tổ chức, biên chế tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả theo các Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW. Quan tâm kiện toàn tổ chức pháp chế, nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác pháp luật ở các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp; bố trí đủ kinh phí, điều kiện cơ sở vật chất để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật, nâng xếp hạng chỉ số B1 của bộ, ngành, địa phương.
        Thứ ba, tăng cường công tác truyền thông nhằm tuyên truyền, quảng bá hoạt động của Chính phủ, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật. Tổ chức triển khai có hiệu quả các hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến người dân, doanh nghiệp, trong đó chú trọng đến việc đổi mới, cải tiến hình thức tuyên truyền, phổ biến phù hợp với từng đối tượng. Tăng cường hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp bằng nhiều hình thức: bằng văn bản, qua phương tiện truyền thông, qua mạng điện tử, mạng xã hội, điện thoại, các diễn đàn đối thoại trực tuyến... Bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh, giải quyết tranh chấp cho doanh nghiệp. Đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các Hiệp hội và hội, là các tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích của các hội viên, các hội cần chủ động phối hơp với các cơ quan nhà nước để thực hiện việc bồi dưỡng và phổ biến pháp luật.
        Thứ tư, Tiếp tục cải cách hành chính, nâng cao chỉ số cạnh tranh, tạo môi trường thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp trong việc đầu tư kinh doanh. Các bộ, ngành cần kịp thời công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia và ban hành quyết định công bố thủ tục hành chính theo quy định, để các địa phương công bố thủ tục hành chính theo trình tự tại địa phương. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhằm giảm thiểu thời gian, tăng tính công khai, minh bạch trong quá trình tiếp nhận, giải quyết hồ sơ của người dân, doanh nghiệp
        Thứ năm: Tăng cường công tác tập huấn nghiệp vụ pháp luật, tăng cường thanh tra công vụ, tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong thực hiện các quy định của pháp luật về cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật, nâng xếp hạng chỉ số B1. Tăng cường công tác tập huấn nghiệp vụ chuyên môn; kỹ năng giao tiếp, ứng xử của cán bộ, công chức. Thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp, ứng xử và bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở địa phương về những điểm mới trong các quy định pháp luật về các điều kiện đầu tư kinh doanh, về cách thức, phương thức, kỹ năng thực thi các quy định nói trên bảo đảm đầy đủ, chính xác, kịp thời đúng tinh thần của nội dung các quy định. Xây dựng, phát hành, tổ chức hướng dẫn sử dụng các tài liệu về tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh; Tăng cường chia sẻ dữ liệu cho các địa phương, quan tâm hơn nữa trong việc giải đáp những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ cho các cơ quan, đơn vị ở địa phương để việc tổ chức thực thi pháp luật được chính xác, thống nhất, đồng bộ nhằm làm giảm phí tuân thủ cho doanh nghiệp và người dân./.
Hà My