Những điểm mới cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính (P1)
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

Những điểm mới cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính (P1)

Ngày 13/11/2020, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính - Luật số 67/2020/QH14, với tỷ lệ 92,53% đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành và Luật có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022. Sau hơn 07 năm triển khai thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn.

          Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi khát quát những điểm mới cơ bản của Luật Xử lý vi phạm hành chính đã khắc phục được những hạn chế, thiếu sót, hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
               1. Về bố cục
          Tương tự như các dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều khác, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính gồm 03 điều, bao gồm:
           Điều 1 - Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (có 75 khoản);
           Điều 2 - Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 163 của Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 và Luật số 23/2018/QH14).
           Điều 3 - Hiệu lực thi hành.
           Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đã sửa đổi, bổ sung nội dung của 66/142 điều (trong đó 16 điều sửa đổi, bổ sung toàn diện), sửa kỹ thuật 11/142 điều, bổ sung mới 04 điều, bãi bỏ 03 điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, tập trung vào 3 chính sách lớn: (1) Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm hành chính; (2) Hoàn thiện các quy định pháp luật về đối tượng, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; (3) Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
                2. Về những quy định chung
          Luật đã sửa đổi, bổ sung một số quy định chung tại Phần thứ nhất của Luật Xử lý vi phạm hành chính bao gồm:
          Thứ nhất, khoản 1 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung khái niệm “tái phạm” quy định tại khoản 5 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính để bảo đảm thống nhất với quy định của Bộ luật hình sự. Theo đó, “tái phạm” là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt; cá nhân đã bị ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính mà lại thực hiện hành vi thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đó.
         Thứ hai, sửa đổi, bổ sung nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với vi phạm hành chính nhiều lần tại điểm d khoản 1 Điều 3 của Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng: Một người thực hiện vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp hành vi vi phạm hành chính nhiều lần được Chính phủ quy định là tình tiết tăng nặng. Quy định này sẽ góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành thời gian qua, bảo đảm thống nhất trong áp dụng pháp luật trên thực tiễn và cũng là một trong những yêu cầu cần sửa đổi trong các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực trước đây không quy định cụ thể hành vi vi phạm hành chính nhiều lần nào thì bị xử phạt về từng lần, trường hợp nào thì bị xử phạt một lần và áp dụng tình tiết tăng nặng.
         Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến thẩm quyền quy định về xử phạt vi phạm hành chính và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Điều 4 Luật Xử lý vi phạm hành chính, cụ thể:
               (i) Biểu mẫu sử dụng trong xử lý vi phạm hành chính được thực hiện theo Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ.
               (ii) Hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc cũng bị xử phạt vi phạm hành chính như hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện và các biện pháp khắc phục hậu quả trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước được Chính phủ quy định sẽ khắc phục được tình trạng thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định) xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước như trước đây.
          Thứ tư, sửa đổi, bổ sung một số điểm về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính như tăng thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa đơn lên 02 năm, quy định rõ vi phạm hành chính về thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về quản lý thuế; sửa đổi quy định về thời hiệu áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; bổ sung quy định về việc tính thời hiệu trong trường hợp cá nhân cố tình trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo hướng thời hiệu được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
               3. Về mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nước
          Tăng mức phạt tiền tối đa của một số lĩnh vực so với Luật Xử lý vi phạm hành chính cũ như: Giao thông đường bộ; phòng, chống tệ nạn xã hội; cơ yếu, quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia, giáo dục; điện lực; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; thủy lợi; báo chí; kinh doanh bất động sản cho phù hợp với tính chất xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước của một số lĩnh vực, bảo đảm ý nghĩa răn đe và phòng ngừa của chế tài xử phạt vi phạm hành chính, cũng là để bảo đảm phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay ở nước ta. Đồng thời, Luật cũng bổ sung quy định mức phạt tiền tối đa của một số lĩnh vực như: Tín ngưỡng, đối ngoại; cứu nạn, cứu hộ; in; an toàn thông tin mạng; kiểm toán nhà nước, cản trở hoạt động tố tụng.
               4. Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
          Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính có một số điều chỉnh để đáp ứng với yêu cầu thực tiễn, cụ thể:
               - Biên bản vi phạm hành chính phải được lập kịp thời và đã được quy định rõ trong Nghị định 118/2021/NĐ-CP của Chính phủ “biên bản vi phạm hành chính được lập trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ khi phát hiện vi phạm hành chính”. “Trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp hoặc có phạm vi rộng, ành hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, thì biên bản vi phạm hành chính được lập trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi phát hiện vi phạm hành chính” và tùy theo tính chất của từng lĩnh vực mà biên bản vi phạm hành chính có thể được lập, gửi bằng phương thức điện tử theo quy định.
              - Thời hạn định giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tại khoản 3 Điều 60 Luật Xử lý vi phạm hành chính đã được điều chỉnh tăng từ 24 giờ lên 48 giờ để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực tiễn, đồng thời, bảo đảm việc định giá cũng như xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chính xác.
               - Quy định về hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật có quy định hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc quy định mức tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính tại Điều 61 Luật Xử lý vi phạm hành chính được sửa đổi, bổ sung.
               Về thời hạn giải trình, Luật chỉ sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn đối với trường hợp giải trình bằng văn bản, theo đó, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải gửi văn bản giải trình cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính từ “trong thời hạn không quá 05 ngày” thành “trong thời hạn 05 ngày làm việc”, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì người có thẩm quyền xử phạt có thể gia hạn nhưng không quá 05 ngày làm việc theo đề nghị của cá nhân, tổ chức vi phạm. Đồng thời, Luật quy định rõ việc gia hạn của người có thẩm quyền xử phạt phải bằng văn bản. Đối với trường hợp giải trình trực tiếp, Luật sửa quy định về việc người có thẩm quyền xử phạt phải thông báo bằng văn bản cho người vi phạm về thời gian và địa điểm tổ chức phiên giải trình trực tiếp từ “trong thời hạn 05 ngày” thành “trong thời hạn 05 ngày làm việc”, kể từ ngày nhận được yêu cầu của người vi phạm.
               Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Luật đã bổ sung quy định về trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không yêu cầu giải trình nhưng trước khi hết thời hạn lại có yêu cầu giải trình thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm xem xét ý kiến giải trình của cá nhân, tổ chức vi phạm.
               - Sửa đổi, bổ sung quy định về tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hết thời hiệu thi hành, thời hiệu cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo hướng: (i) Người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với những trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính, nhưng vẫn phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành hoặc tang vật, phương tiện mà pháp luật có quy định hình thức xử phạt tịch thu và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với hành vi vi phạm hành chính đó; (ii) Đối với trường hợp hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì không thi hành quyết định đó nữa, nhưng vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả nếu quyết định xử phạt có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả; (iii) Đối với trường hợp hết thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế thì không thi hành quyết định cưỡng chế đó, nhưng vẫn phải cưỡng chế tịch thu tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp quyết định xử phạt có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
               - Sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng (i) Đối với vụ việc vi phạm hành chính thông thường thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 07 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính; vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính; (ii) Đối với vụ việc mà cá nhân, tổ chức có yêu cầu giải trình hoặc phải xác minh các tình tiết có liên quan quy định tại Điều 59 của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 01 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính; (iii) Đối với vụ việc thuộc trường hợp cá nhân, tổ chức có yêu cầu giải trình hoặc phải xác minh các tình tiết có liên quan mà đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp, cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 02 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đây là quy định nhằm khắc phục vướng mắc, bất cập của các địa phương khi quy định thời gian ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Luật cũ chỉ là 7 ngày, gây khó khăn cho người có thẩm quyền xử phạt
               - Sửa đổi, bổ sung quy định về giao quyền xử phạt theo hướng cấp trưởng có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, nhưng vẫn có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Trong thời gian được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính, cấp phó có quyền hạn như cấp trưởng đối với phạm vi được giao, trừ quyền áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính (cấp trưởng chỉ được thực hiện việc giao quyền áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính cho cấp phó trong trường hợp cấp trưởng vắng mặt theo quy định tại Điều 123 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Minh Long