Một số vấn đề pháp lý về thực hành kinh doanh có trách nhiệm
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

Một số vấn đề pháp lý về thực hành kinh doanh có trách nhiệm

Nhìn chung, các quy định về thực hành kinh doanh có trách nhiệm được ban hành công khai, minh bạch, đúng pháp luật, đảm bảo cho công tác quản lý Nhà nước đi vào nề nếp, thể hiện được tính trách nhiệm, chủ động và quyết tâm của cơ quan quản lý Nhà nước, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các tỉnh, thành phố.


        Trong những năm qua đã tỉnh, thành phố đã thực hiện tốt các quy định của việc thi hành pháp luật về thực hành kinh doanh có trách nhiệm trong lĩnh vực Lao động - Thương binh và xã hội:  như: Tăng cường gắn kết và huy động doanh nghiệp tham gia giáo dục nghề nghiệp gắn với giải quyết việc làm cho người lao động; tăng cường thực hiện trách nhiệm xã hội và đóng góp của doanh nghiệp đối với hoạt động giáo dục nghề nghiệp thông qua các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đáp ứng nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp và xã hội; tăng cường trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp trong việc đào tạo nghề cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; nâng cao trách nhiệm của chủ các doanh nghiệp, người sử dụng lao động về bảo đảm an toàn cho người lao động. Đối với lĩnh vực Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các quy định liên quan để điều chỉnh về thực hành kinh doanh có trách nhiệm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản đã thúc đẩy doanh nghiệp tuân thủ cơ bản các yêu cầu đặt ra. Người tiêu dùng nâng cao nhận thức về quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các doanh nghiệp nhận thấy rõ trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội thấy được vai trò, trách nhiệm của mình trong việc tham gia và phối hợp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,…
        Những bất cấp, vướng mắc trong quy định của pháp luật
        * Các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
       Bên cạnh những kết quả đạt được qua các hoạt động triển khai thực hiện pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, thì việc thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc như: Các chế độ hỗ trợ, bồi dưỡng cho người làm công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn hạn chế, chưa tạo động lực khuyến khích họ nâng cao chất lượng hoạt động. Công tác thông tin, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn hạn chế, chưa thường xuyên. Nhận thức của nhiều người tiêu dùng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của mình còn hạn chế. Công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa được gắn kết cao, nhất là trong phối hợp giải quyết các khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị có liên quan đến lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
       * Các quy định pháp luật về đầu tư
        Chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung để theo dõi và giám sát hoạt động của doanh nghiệp, trong đó có việc thực hành kinh doanh trách nhiệm của doanh nghiệp được đồng bộ, thống nhất (hiện nay từng đơn vị quản lý theo chức năng, nhiệm vụ của mình).
        * Lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã hội:
        - Việc giao đất sạch cho các nhà đầu tư là một chính sách ưu đãi rất lớn để thu hút đầu tư phát triển giáo dục nghề nghiệp. Tuy nhiên, chính sách này rất khó thực hiện trong thực tế do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính cần có quy hoạch sử dụng đất đai cho mục đích xã hội hóa.
        - Nhận thức của một bộ phận phụ huynh và học sinh về học nghề chưa đúng mức, việc phân luồng, định hướng học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông vào học nghề còn nhiều hạn chế nên để thu hút đông đảo học sinh vào học nghề rất khó khăn và chi phí cho học nghề lớn nên việc thu học phí đủ để trang trải chi phí cho học nghề rất khó thực hiện…do đó chưa thực sự thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực này.
        * Lĩnh vực Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
        - Thiếu sự đồng bộ trong việc triển khai các quy định của Luật Đất đai, Luật đầu tư, cụ thể: Tại Điều 14, Điều 15 quy định về giao rừng, cho thuê rừng đồng bộ với giao đất, cho thuê đất, tuy nhiên không xác định việc cho thuê rừng có thông qua đấu giá quyền sử dụng rừng hay không. Rừng tự nhiên với những đặc thù nhất định, cần được quy định rõ việc đấu giá hay không đấu giá để tạo hành lang pháp lý cho các địa phương khi triển khai công tác giao rừng, cho thuê rừng. Với Luật Đầu tư, sau khi khảo sát địa điểm đề xuất đầu tư có chuyển mục đích sử dụng rừng, Sở Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổng hợp ý kiến của các sở, ngành trong đó có Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, ban hành Quyết định chủ trương đầu tư. Tuy nhiên, việc quyết định chuyển mục đích sử dụng rừng ở địa phương thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân tỉnh với phiên họp mỗi năm 02 lần. Như vậy, nếu đợi Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng (mỗi năm 02 kỳ họp) sẽ chậm thu hút đầu tư và không đảm bảo thủ tục hành chính về đầu tư; trường hợp Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định chủ trương đầu tư khi chưa được Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác sẽ không phù hợp với quy định của Luật Lâm nghiệp.
        - Quy định thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng và sử dụng đất chưa có sự đồng bộ về thẩm quyền, cụ thể: Luật Đất đai (Điều 58) quy định trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng từ 20 ha trở lên thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ; dưới 20 ha thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; không quy định thẩm quyền chuyển mục đích sử dụng đối với đất rừng sản xuất. Tuy nhiên, theo quy định Luật Lâm nghiệp (Điều 20) việc chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng từ 50 ha trở lên thuộc thẩm quyền của Quốc hội, dưới 50 ha thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ; việc chuyển mục đích sử dụng rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ biên giới từ 50 ha trở lên thuộc thẩm quyền của Quốc hội, từ 20 ha tới 50 ha thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ, dưới 20 ha thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; việc chuyển mục đích sử dụng rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay và rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển từ 500 ha trở lên thuộc thẩm quyền của Quốc hội, từ 20 ha đến dưới 500 ha thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ, dưới 20 ha thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; việc chuyển mục đích sử dụng rừng sản xuất từ 1.000 ha trở lên thuộc thẩm quyền của Quốc hội, từ 50 ha đến dưới 1.000 ha thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ, dưới 50 ha thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; việc chuyển mục đích sử dụng rừng bảo vệ nguồn nước của cộng đồng dân cư thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Qua đó, quy định thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng và sử dụng đất chưa có sự đồng bộ về thẩm quyền.
        - Về quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch rừng Luật Đất đai quy định quy hoạch sử dụng đất 03 cấp (quốc gia, tỉnh, huyện), kỳ quy hoạch sử dụng đất là 10 năm, kỳ kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp tỉnh là 05 năm; kế hoạch sử dụng đất cấp huyện được lập hàng năm; tuy nhiên, Luật Lâm nghiệp quy định chỉ có quy hoạch lâm nghiệp cấp quốc gia với thời gian là 10 năm, trong đó có nội dung định hướng phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất ở cấp quốc gia. Do đó, có thể thấy chưa đồng bộ trong quy định về quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch rừng.
        - Mức độ nhận thức về thực hành kinh doanh có trách nhiệm của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp tư nhân còn hạn chế, cụ thể: việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế còn hạn chế, chỉ được thực hiện tại các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu và một số ít doanh nghiệp chế biến nông sản. Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế do chưa quan tâm đến việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
 
        Kiến nghị và giải pháp nhằm thúc đẩy thực hành kinh doanh có trách nhiệm tại Việt Nam
        * Đối với lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã hội
       - Quy hoạch quỹ đất cho mục đích xã hội hóa giáo dục đào tạo để có cơ sở kêu gọi các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển giáo dục nghề nghiệp; đồng thời xử lý vướng mắc giữa Điều 6 của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường với Điều 118, Điều 119 Luật Đất đai năm 2013 và quy định đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư;
        - Nhà nước không nên tính thuế đối với đất sử dụng vào mục đích xây trường học, nhưng cần tính giá trị của đất, coi đó là nguồn đóng góp của nhà nước vào tài sản chung của nhà trường để hạch toán và sử dụng lợi nhuận thu được vào việc thực hiện chính sách xã hội;
        - Để giám sát thực hành kinh doanh có trách nhiệm, Luật Doanh nghiệp cần quy định bắt buộc báo cáo các thông tin phi tài chính nhằm đánh giá thường xuyên tác động của doanh nghiệp đối với xã hội. Các yêu cầu về đánh giá tác động thực tế và dự báo của dự án đầu tư, trong đó có đánh giá tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội, cũng cần được tăng cường;
        - Người lao động có thể dễ bị bóc lột khi muốn di trú và làm việc ở nước ngoài. Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải đưa ra điều khoản cấm thu lệ phí và các chi phí liên quan trong quá trình tuyển dụng lao động nhập cư, đảm bảo phù hợp với Công ước số 181 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về các Cơ quan dịch vụ việc làm tư nhân;
         - Phối hợp triển khai thực hiện tốt Nghị định số 44/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2021 của Chính phủ Quy định chi tiết một số Điều của Luật An toàn, vệ sinh lao động về hoạt động kiểm định kỹ thuật an toàn lao động, huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động và quan trắc môi trường lao động và Nghị định số 140/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2021 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung các Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh và thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
         * Đối với lĩnh vực Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
        - Tiếp tục xây dựng hoàn thiện khung pháp lý về kinh doanh có trách nhiệm, trong đó thống nhất theo xu hướng chung của thế giới là cần thiết, nghiên cứu ban hành chương trình hành động quốc gia về kinh doanh có trách nhiệm. Qua đó, tạo tiền đề để doanh nghiệp thực hiện một cách nghiêm túc, hiệu quả, điều này đặc biệt cần thiết để phát triển bền vững sau đại dịch Covid -19;
        - Bên cạnh việc thanh kiểm tra, xử lý vi phạm về sản xuất, kinh doanh không tuân thủ quy định thì việc tuyên truyền cho doanh nghiệp về thực hành kinh doanh có trách nhiệm là rất cần thiết, giúp doanh nghiệp thấy được các lợi ích, không chỉ ngắn hạn mà trong dài hạn khi thực hành kinh doanh có trách nhiệm, đó là nâng cao vị thế, thương hiệu, bền vững để được cộng đồng đón nhận;
        - Đưa ra biện pháp khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp tận dụng những lợi thế từ tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam, hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận với chuỗi cung ứng toàn cầu, từ đó tạo ra động lực để đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Tăng cường các biện pháp nhằm nhanh chóng thực hiện các quy định của EU về chống khai thác, đánh bắt bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU), giảm thiểu nguy cơ thiệt hại do đánh mất thị trường và mất uy tín sản phẩm;
        - Tăng cường nhận thức, kiến thức cho người tiêu dùng, người dân về chất lượng, an toàn thực phẩm, về nhãn mác, phân biệt lựa chọn thực phẩm an toàn, phòng vệ thương mại...Điều này sẽ góp phần thúc đẩy việc đáp ứng, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp;
        - Các cơ quan quản lý Nhà nước cần có cơ chế giám sát, nâng cao năng lực bảo vệ người tiêu dùng. Bên cạnh đó, cần chú trọng mạnh mẽ hơn đến những tác động về môi trường, con người, an toàn thực phẩm, lợi ích kinh tế xã hội khi thẩm định dự án đầu tư vào nông nghiệp của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp chế biến thực phẩm;
        - Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực cho các địa phương, các đơn vị chủ rừng. Sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai, Luật Đầu tư đảm bảo nội dung tương thích với những điểm mới của Luật Lâm nghiệp, trong trường hợp cần thiết, xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Lâm nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội trong tình hình mới. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên nên có hướng dẫn cụ thể về định mức, chính sách trong việc thực hiện chính sách đầu tư phát triển rừng theo quy định của Luật Lâm nghiệp./.
Hà My