Những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện biên chế, tổ chức bộ máy của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và Tư pháp cấp xã trong Khu vực phía Nam
Sign In
  • * Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Trang thông tin điện tử Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp *

Nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm

Những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện biên chế, tổ chức bộ máy của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và Tư pháp cấp xã trong Khu vực phía Nam

Trong những năm gần đây, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp ngày càng được bổ sung, cơ cấu tổ chức của các cơ quan tư pháp địa phương cũng được kiện toàn để đáp ứng với yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện biên chế, tổ chức bộ máy của Sở Tư pháp (STP), Phòng Tư pháp (PTP) và Tư pháp cấp xã đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.

I. Tình hình về thực hiện biên chế, tổ chức bộ máy của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và Tư pháp cấp xã trong Khu vực phía Nam
1. Tổ chức bộ máy
1.1. Sở Tư pháp
* Lãnh đạo Sở Tư pháp:
Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNVSở Tư pháp có Giám đốc và không quá 03 Phó Giám đốc; đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh không quá 04 Phó Giám đốc. Căn cứ theo quy định trên, khu vực phía Nam có 25 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh) sẽ có không quá 101 lãnh đạo STP.
Qua theo dõi thực tế trong khu vực, tại 25 STP, hiện nay có 91 lãnh đạo cấp Sở[1], Trong năm 2018, có 08 Lãnh đạo STP[2] (02 Giám đốc, 06 Phó Giám đốc) được nghỉ hưu theo chế độ. Riêng Bạc Liêu và Khánh Hòa năm nay sẽ có Giám đốc và Phó Giám đốc STP cùng nghỉ hưu.
* Các tổ chức tham mưu, tổng hợp và chuyên môn nghiệp vụ của Sở Tư pháp
Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh được thành lập Văn phòng Sở, Thanh tra Sở và không quá 09 Phòng chuyên môn, nghiệp vụ; đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác có Văn phòng Sở, Thanh tra Sở và 06 Phòng chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện 34 đầu việc được giao cho STP. Riêng các thành phố trực thuộc Trung ương[3] được thành lập Phòng Lý lịch tư pháp. Việc quy định này đã làm cho tên gọi các đơn vị thuộc STP thống nhất trên toàn quốc, nên việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp cũng thuận lợi hơn trước khi có Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV.
Kể từ khi Nghị định số 92/2017/NĐ-CP ngày 07/8/2017 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính có hiệu lực thi hành, các STP đã thực hiện chuyển giao Phòng Kiểm soát thủ tục hành chính và nhiệm vụ về công tác kiểm soát thủ tục hành chính về Văn phòng UBND cấp tỉnh. Như vậy, các STP chỉ còn Văn phòng, Thanh tra Sở và 05 Phòng chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện 34 đầu việc[4] được giao cho STP.
Qua theo dõi thực tế tại các STP, số lượng Văn phòng và các đơn vị trực thuộc STP được thành lập trong phạm vi quy định của pháp luật. Cụ thể, trong khu vực có 179 đơn vị cấp phòng chuyên môn, nghiệp vụ[5]. Hiện nay chỉ còn TP. Hồ Chí Minh có Phòng Tổ chức cán bộ thuộc Sở. Các STP còn lại bộ phận tổ chức cán bộ thuộc Văn phòng Sở.
1.2. Phòng Tư pháp
PTP là đơn vị trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước trong 26 lĩnh vực về tư pháp; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức và công tác của Ủy ban nhân dân cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của STP.
Trong khu vực, hiện có 260 PTP cấp huyện, riêng huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa chưa có PTP.
2. Biên chế
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bố trí biên chế cho STP,  bảo đảm mỗi Phòng chuyên môn thuộc Sở có Trưởng phòng, không quá 02 Phó trưởng phòng và các công chức khác. Ủy ban nhân dân cấp huyện bố trí biên chế cho PTP, công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã.
Qua theo dõi, tổng biên chế thực hiện tại các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc STP trong khu vực là 916 biên chế hành chính/2014 tổng biên chế. Tuy nhiên, số lượng biên chế tại một số phòng chuyên môn còn ít, nhiều phòng chỉ có 2 đến 3 công chức, nhất là Thanh tra Sở thường chỉ có 1-2 công chức. Cá biệt, tại Phòng Bổ trợ tư pháp STP tỉnh Bạc Liêu chỉ có 01 công chức là trưởng phòng, các chuyên viên khác được “tăng cường” từ Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước của tỉnh; nhiều phòng của STP Hậu Giang chỉ có 02 công chức; Phòng Quản lý xử lý và theo dõi thi hành pháp luật STP Vĩnh Long …
Số lượng biên chế của các PTP trong Khu vực là 1.324 người, trong đó có 518 lãnh đạo cấp phòng. Bình quân biên chế của PTP trong Khu vực là 5,09 người, cao hơn bình quân chung biên chế của PTP trên cả nước[6]0,59 người. Tuy nhiên, có nhiều PTP chỉ có 2 cán bộ[7].
Trong Khu vực, tổng số công chức Tư pháp - Hộ tịch giúp UBND cấp xã thực hiện nhiệm vụ tư pháp là 5.885 người, trong đó có 2.720/3.284 xã, phường, thị trấn đã bố trí từ 2 công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã trở lên (chiếm 82,82%), cao hơn bình quân chung cả nước[8] là 18,62%. Rất nhiều STP đã tham mưu Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh phân bổ đủ 02 công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã tiêu biểu như 100% số xã của Bến Tre, Đăk Nông có 02 công chức tư pháp – Hộ tịch; Phú Yên tháng 10/2016 chỉ có 50% số xã có 02 công chức tư pháp – Hộ tịch, đến nay đã nâng lên 65,1%
3. Trình độ của công chức làm công tác tư pháp tại địa phương
Tại STP:1.417/2.014 người có trình độ Đại học luật, 156 người có trình độ sau đại học luật, trong đó đặc biệt có 03 tiến sĩ luật hiện đang công tác tại STP (Cần Thơ, Đồng Nai, Hậu Giang).
Cấp huyện:1.083/1.324 công chức PTP cấp huyện có trình độ Đại học luật, 39 thạc sĩ luật;
Tại cấp xã:31 công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã có trình độ thạc sĩ luật, 4.065/5.885 công chức có trình độ Đại học luật, 1.067/5.885 công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã có trình độ trung cấp luật. (Một số địa phương có tỷ lệ cao công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã có trình độ từ trung cấp luật trở lên là: Tiền Giang, Đồng Tháp 100%; Rà Rịa – Vũng Tàu 99,35%; Cần Thơ 97,06%; Đặc biệt 100% công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã của Quận 1, TP. Hồ Chí Minh có có trình độ Thạc sĩ Luật).
   
Biểu số 1: Trình độ công chức làm công tác tư pháp tại STP trong Khu vực Biểu số 2: Trình độ công chức tư pháp của PTP cấp huyện
 
Biểu số 3: Trình độ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã trong Khu vực

II. Những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện biên chế, tổ chức bộ máy của cơ quan tư pháp địa phương trong Khu vực
1. Khó khăn
1.1. Đối với Sở Tư pháp
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII ngày 25/10/2017 một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng địa phương, một số vấn đề đang được đặt ra trong việc nghiên cứu sắp xếp tổ chức bộ máy, cụ thể:
- Về số lượng Phó Giám đốc STP thuộc UBND cấp tỉnh loại đặc biệt và loại 1 sẽ không có quá 03 Phó Giám đốc; STP thuộc UBND cấp tỉnh loại II và loại II có không quá 02 Phó Giám đốc. Đây là vấn đề lớn cần có lộ trình để thực hiện việc bố trí, luân chuyển vì đa số các PGĐ đều còn trong độ tuổi bổ nhiệm.
- Theo tiêu chí thành lập phòng chuyên môn thuộc Sở yêu cầu bố trí tối thiểu từ 05 biên chế trở lên, trong khi biên chế của các STP trong Khu vực hiện nay chỉ từ khoảng 23-42 người (duy nhất có STP TP. Hồ Chí Minh có 105 biên chế hành chính). Như vậy, các STP phải sáp nhập các phòng chuyên môn để đảm bảo số lượng biên chế tối thiểu (mỗi STP chỉ còn lại Văn phòng và từ 2-4 phòng chuyên môn) nhưng sẽ phát sinh việc không thống nhất giữa các địa phương về tên gọi các phòng, khó khăn cho công tác theo dõi, chỉ đạo chuyên môn của Bộ Tư pháp. Đồng thời, sẽ đặt ra vấn đề bố trí lãnh đạo cấp phòng sau khi thực hiện sắp xếp lại đơn vị.
- Trên tinh thần sẽ bỏ cơ chế đặc thù của Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh để đảm bảo sự thống nhất, phù hợp với Nghị quyết 39-NQ/TW theo đó TP. Hồ Chí Minh (đô thị đặc biệt) cũng giống như Ủy ban nhân dân cấp tỉnh loại 1 khác, STP sẽ chỉ có Giám đốc và không quá 3 Phó Giám đốc; không còn 09 Phòng chuyên môn, nghiệp vụ như quy định của Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV. Điều này sẽ tạo ra áp lực giải quyết công việc cho một đô thị rất lớn. Ví dụ trong năm 2017, STP TP. Hồ Chí Minh thực hiện cấp Phiếu Lý lịch tư pháp cho 41.292 trường hợp, trong khi Đăk Nông chỉ thực hiện cấp cho 1.188 trường hợp (tính bình quân số lượng Phiếu được cấp tại Đăk Nông 1 năm bằng số lượng Phiếu cấp trong 1,5 tuần tại TP. Hồ Chí Minh).
- Công tác tham mưu, định hình tổ chức bộ máy của STP mang tính tổng thể, dài hạn chưa đạt kết quả như mong muốn. Việc tuyển dụng biên chế phụ thuộc vào chỉ tiêu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phân bổ nên chưa có giải pháp đột phá để thu hút, giữ chân những cán bộ có năng lực, trình độ cao cống hiến cho ngành.
- Tỷ lệ công chức tư pháp hộ tịch có trình độ khác luật còn cao cả 03 cấp: STP chiếm 17,53%, cấp huyện chiếm 15,18% và cấp xã 13,54%[9]. Đòi hỏi sự nỗ lực của các địa phương để đảm bảo chuẩn hóa đội ngũ công chức theo quy định của Luật Hộ tịch trong thời gian đến 31/12/2019.
1.2. Đối với Phòng Tư pháp và Tư pháp cấp xã
- Mỗi năm, số vụ việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài trong Khu vực khoảng 17.194 việc[10], bình quân 1 PTP giải quyết khoảng 66,2 việc/năm với số lượng công chức PTP chỉ là khoảng 5,09 người và phải đảm bảo đúng quy định pháp luật, quy trình, thời gian giải quyết công với thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước trong 26 lĩnh vực về tư pháp là một áp lực đối với các PTP địa phương.  Nhiều địa phương, Ủy ban nhân dân cấp huyện đã tăng cường công chức bộ phận một cửa để giúp PTP trong việc nhận và trả kết quả giải quyết hồ sơ.
- Việc bố trí công chức làm công tác hộ tịch chưa đúng với tiêu chuẩn theo quy định còn phổ biến; vẫn còn tình trạng sử dụng biên chế công chức tư pháp – hộ tịch cho chức danh khác hoặc yêu cầu công chức tư pháp – hộ tịch kiêm nhiệm công tác khác.
- Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV không có chương riêng hướng dẫn về công tác tư pháp của UBND cấp xã như Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV, nhưng hiện nay các quy định về chức năng, nhiệm vụ và việc bố trí đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch nằm trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Cụ thể, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP; Thông tư  06/2012/TT-BNV hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn; Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch dẫn đến việc triển khai công tác tư pháp cấp xã còn nhiều khó khăn do chưa bao quát được hết các nhiệm vụ theo quy định, chất lượng và hiệu quả quản lý còn thấp.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với Bộ Tư pháp
- Bộ Tư pháp sớm ban hành Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV để đảm bảo thực hiện việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp được thống nhất.
- Cục Công nghệ thông tin chủ trì phối hợp với các đơn thuộc Bộ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để đạt được hiệu quả và tiến độ so với yêu cầu đặt ra; nâng chất lượng các dịch vụ công trực tuyến do Bộ, Ngành Tư pháp cung cấp, hiệu quả ứng dụng một số phần mềm.
- Học viện Tư pháp, các Trường Trung cấp Luật thuộc Bộ tổ chức các lớp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tư pháp địa phương trong giai đoạn chuyển tiếp 2015-2019 theo quy định của Luật Hộ tịch và văn bản số 10-CV/BCS ngày 20/01/2016 của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp[11].
2.2. Đối với các Sở Tư pháp
- Chủ động tham mưu UBND tỉnh trong việc sắp xếp, bố trí lại bộ máy đảm bảo tinh gọn, hiệu quả, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của Ngành từ tỉnh đến cơ sở.
- Chú trọng hơn nữa việc nâng cao năng lực, nhất là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của công chức, viên chức tư pháp để đáp ứng các điều kiện do Bộ Tư pháp và quy định pháp luật hiện nay
- Quan tâm chuẩn hoá các chức danh theo quy hoạch đã được phê duyệt./.
 
Ths Lê Thị Minh Long 
 

[1] Hiện nay trong Khu vực, Tây Ninh chưa có Giám đốc STP; Các địa phương chỉ có 02 Phó Giám đốc STP: Kiên Giang, Đồng Nai, Cần Thơ, Bình Thuận, Bình Phước, Bình Dương, Bạc Liêu, An Giang. Riêng Lâm Đồng có 1 Giám đốc và 01 Phó giám đốc
[2] Giám đốc STP: Bạc Liêu, Khánh Hòa; Phó Giám đốc STP: An Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bạc Liêu, Khánh Hòa, Tiền Giang. Trong đó PGĐ STP An Giang, Cần Thơ đã được nghỉ hưu tháng 2,3/2018 nên không được thống kê trong số Lãnh đạo Sở hiện có.
[3] Khu vực có TP. Hồ Chí Minh và TP. Cần Thơ.
[4] Vẫn còn thực hiện 1 phần công việc kiểm soát thủ tục hành chính: kiểm soát thủ tục hành chính và cải cách thủ tục hành chính đối với các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp.
[5] TP. Hồ Chí Minh có 10 đơn vị;TP. Cần Thơ có 08 đơn vị, các địa phương khác có 07 đơn vị hành chính cấp Sở.
[6] Bình quân biên chế PTP trên cả nước là 4,5 người/PTP
[7] Một số PTP có 2 công chức: huyện Sông Hinh (Phú Yên); TX Tân Uyên (Bình Dương); huyện Tiểu Cần (Trà Vinh), huyện Cù Lao Dung (Sóc Trăng), thị xã Long Mỹ (Hậu Giang)
[8] Bình quân chung cả nước có 64,2% xã, phường, thị trấn đã bố trí từ 2 người làm công tác Tư pháp - Hộ tịch trở lên.
[9] Một số địa phương có công chức tư pháp – hộ tịch có trình độ từ trung cấp Luật trở lên thấp như: Ninh Thuận, Bình Phước…
[10] Năm 2017, khu vực phía Nam thực hiện đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài cho 3.282 trường hợp; khai tử cho 685 trường hợp; kết hôn cho 13.227 trường hợp, chiếm 70,07% vụ việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài trên cả nước.
[11] Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Lãnh đạo HĐND và UBND cùng cấp tiếp tục quan tâm, chỉ đạo sát sao việc kiện toàn tổ chức bộ máy, sắp xếp, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan tư pháp địa phương, thời gian hoàn thành trước 01/7/2016.